Tôn nghiêm trong sinh tử
Nhiều người có cảm nhận tiêu cực về cuộc sống, cho nó là vô vị, tội lỗi hay gánh nặng… đây là cái nhìn phiến diện về cuộc sống phát sinh từ trình độ hiểu biết Phật pháp thấp.
Phật dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó được nghe”. Muốn khai ngộ thành Phật, thành tựu “pháp thân huệ mạng” chỉ có một con đường duy nhất là dùng thân người để “văn pháp tu trì” thì mới đạt được mục đích cao cả của việc tu tập.
Lại có người cho rằng tu hành chỉ có thể được sanh về nước Phật rồi từ đó tu tiếp mà thôi. Đây cũng là nhận thức sai lệch, bởi vì bao đời chư Phật đều thành Phật tại nhân gian, dùng thân người tu hành chứng đạo chứ không phải bằng hình thái khác để thành Phật. Do vậy trước hết phải được thân người rồi sau đó mới có thể phát tâm, phát bồ đề tâm, tu bồ tát đạo, để thành tựu quả Phật. Bởi thế được sống và sống làm con người là điều quý giá nhất.
Nếu biết rõ sống chết là quá trình tất yếu thì cuộc sống vốn rất đáng quý, sống không phải là điều đau khổ, chết không phải là cái thương đau. Quan trọng ở chỗ là thái độ của chúng ta đối với sự sống và cái chết mà thôi. Nếu sống không giá trị thì sống có vui chi? chết có tiếc gì? Ngược lại cuộc sống có ích lợi thì chết có gì phải đau thương nuối tiếc.
Giá trị của cuộc sống không phải do người khác đánh giá và xác định mà phải do tự chính mình gánh lấy trách nhiệm, hoàn thành trách nhiệm cần phải gánh vác của đời mình. Đồng thời phải biết vận dụng cuộc sống có hạn của mình để cống hiến được nhiều nhất.
Sống cần phải có phương hướng làm điểm y cứ cho cuộc đời.
Người Phật tử đem những gì mình có được để giúp đỡ tha nhân, đem tất cả công đức mình có được hồi hướng cho chúng sanh, lại cần không ngừng phát nguyện vì nguyện lực sẽ giúp chúng ta có sức mạnh để tiến triển, giúp ta có thái độ tích cực hoàn thành tâm nguyện để cống hiến nhiều hơn. Nếu xác lập được mục tiêu như vậy thì cuộc sống dù dài hay ngắn đều có được giá trị tôn nghiêm nhất định.
Sống đã là một quyền lợi thì chết cũng là một quyền lợi. Sống là trách nhiệm thì chết cũng là trách nhiệm. Khi sống phải biết tiếp nhận sự sống và vận dụng đời sống của mình. Khi chết phải biết tiếp nhận sự chết và đối mặt với cái chết. Do vậy, đối với những người mang bệnh ung thư thời kỳ cuối, chúng ta cần khuyên bảo họ đừng đợi chết, đừng sợ chết, sống thêm được ngày nào, giờ phút nào đều đáng quý cả. Bởi vì sống chết là hiện tượng tất yếu trong thời gian vô hạn. Không đáng chết thì đừng tìm cái chết, đến lúc phải ra đi thì cầu sống thêm cũng chưa chắc gì.
Sống chết nối nhau không ngừng. Con người từ khi bắt đầu nhận thức được cuộc sống thì cũng ngay lúc ấy phải có tâm lý chuẩn bị đối mặt với cái chết cận kề. Cái chết đến với người thân, bạn bè, ngay cả đến với ta vào bất cứ lúc nào.
“Tôi thấy người khác mất
Bỗng thấy lòng xót xa
Chẳng phải xót kẻ mất
Mà nghĩ đến phiên ta”
Nhận thức được điều nầy sẽ không làm cho chúng ta lo sợ cái chết, không phải dùng cái chết để dọa người. Nếu nhận rõ được sự thật của cái chết thời có thể giúp ta tăng trưởng trí tuệ. Đức Thích Ca thời trẻ vì nhận rõ được sự thật của sanh, lão, bệnh, tử nên đã thôi thúc Ngài xuất gia tu hành để đạt được trí tuệ cứu khổ chúng sanh.
Không ai biết được cái chết khi nào sẽ đến, biết rằng cái chết sẽ đến nhưng không được lo sợ khi nào nó đến, phải tận dụng cuộc sống, sống được ngày nào thời phải biết quý trọng cuộc sống, làm hết trách nhiệm cùng nổ lực phụng hiến.
Nhiều người xây dựng quan niệm và lý luận về sinh tử của mình trên lập trường tín ngưỡng tôn giáo, triết học. Lại có người tin vào thần thông dùng túc mạng thông, thiên nhãn thông để xem quá khứ, vị lai nhưng tất cả đều là cách nhìn, mong cầu và hy vọng không chắc thật.
Nói tóm lại triết học Phiếm thần luận cho rằng sinh mệnh đến từ chỉnh thể thần khi chết thì trở về với thần. Triết học Duy vật thì cho rằng cuộc sống vốn chỉ là hiện tượng vật chất, sống như đèn sáng, chết như tắt đèn.
Học giả Nho gia Trung quốc từng nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ” (sáng nghe đạo, tối chết cũng cam) lại nói “sinh tử do mệnh” “thính thiên do mệnh”. Nghĩa là sống chết đều do mệnh số quyết định. Tuy thế Khổng tử cũng có nói “vị tri sanh yên tri tử” (sống còn chưa hay, làm sao biết chết) tuy đề cập như vậy nhưng Nho gia không nói rõ hơn sinh mệnh là gì.
Lão tử thì dạy: “Xuất sanh nhập tử” (có sanh thì có tử), hay “nhân chi sanh, động chi tử địa” (con người vừa khi sanh ra thì cùng lúc ấy con đường đưa ta vào cõi chết cũng đã bắt đầu khởi động mở cửa rồi). Do vậy Lão tử dạy mọi người không nên lo lắng về vấn đề sống chết chỉ cần “tôn đạo nhi quý đức”. “phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên” chính là chỉ cần có đạo đức, còn việc sống chết của cuộc đời cứ để nó tự nhiên đến “chết nhẹ tợ lông hồng”.
1. Sinh mệnh chỉ là một thời đoạn nhất định nào đó trong chuỗi dài sinh tử vô tận.
a/ Sát na sinh diệt: Sát na là trong một giai đoạn ngắn nhất, tâm lý sinh lý, tâm niệm của chúng ta, bao gồm tất cả những tế bào trong cơ thể cũng không ngừng sanh cũ đổi mới, liên tục biến động, sanh diệt không ngừng.
b/ Một kỳ sanh diệt: tức là một đời người từ khi sanh đến khi chết. Đó là một giai đoạn của sanh và tử.
c/ Tam thế sanh diệt: Bao gồm tam thế của đời quá khứ vô hạn, tam thế của đời vị lai vô cùng, cùng với tam thế cúa đời hiện tại tức là hiện tại, vị lai, quá khứ của đời quá khứ. hiên tại, vị lai, quá khứ của đời vị lai và hiện tại, vị lai, quá khứ của đời hiện tại. Lấy đời hiện tại để nói thì có đời trước, đời nay và đời sau đó là tam thế sanh mệnh.
3. Hiện tượng thăng hoa sinh tử chia làm ba giai đoạn:
a/ Phần đoạn sanh tử của phàm phu chúng sanh, phần đoạn là mỗi giai đoạn, mỗi một quá trình, sanh rồi lại sanh, từ sanh tới tử, từ tử đến sanh. Phàm phu chỉ ngừng ở giai đoạn này, chỉ có sanh tử, không có phẩm chất và ý nghĩa thăng hoa sinh tử.
b/ Thánh giả biến dịch sanh tử: Từ quả vị A la hán, các giai đoạn của quả vị Bồ tát, cho đến tầng thứ của con đường tiến đến Phật quả từng cấp, từng cấp nâng cao. Đây gọi là biến dịch, cũng là dùng Phật pháp tu hành, tăng trưởng và thăng hoa phẩm chất của cuộc sống. Do vậy, thân công đức của từ bi và trí tuệ không ngừng được tịnh hóa.
1. Ba tầng thứ của tử vong
a/ Tùy nghiệp sanh tử: Chúng ta không làm chủ được sanh tử của mình do nghiệp lực dẫn dắt. Sanh trong mơ hồ, chết trong mê muội. Cuộc đời là chuổi ngày “túy sanh mộng tử”
b/ Tự chủ sanh tử: Nhận biết rõ ràng được sống và chết của mình, sống đàng hoàng, chết dũng mãnh, sống an vui, chết an nhàn.
2. Dùng tâm hoan hỷ và lòng biết ơn đối mặt với cái chết.
3.Tương lai tràn đầy hy vọng
Hiện tượng sanh tử như mặt trời mọc rồi lại lặn. Khi mặt trời lặn chỉ là bị che khuất ở nữa phần bên kia trái đất chứ không phải là thật sự mất đi. Mặt trời mọc chỉ là ló dạng ra với nữa phần bên này trái đất chứ thật ra lúc nào cũng tròn vẹn sáng tỏa trong hư không.
Thân xác của con người tuy có hiện tượng sống chết nhưng mỗi người đều vốn đủ Phật tánh thanh tịnh tồn tại vĩnh viễn như mặt trời trên không. Do vậy, chết không phải là điều đáng sợ, không phải là cái đau đớn nên không cần lo lắng sợ hãi, chúng ta phải có đầy đủ hy vọng với tương lai của chúng ta.
4. Tu tập để được tùy niệm, tùy nguyện vãng sanh.
Có sáu nhân tố quyết định đường đi của chúng ta sau khi chết là:
a/ Tùy nghiệp: Thiện nghiệp ác nghiệp cái nào mạnh sẽ dẩn dắt chúng ta theo con đường đó.
b/ Tùy trọng: Theo thứ tự thọ hết quả báo của trọng nghiệp lại đến thọ báo của khinh nghiệp.
c/ Tùy tập: Tuy chưa có đại thiện nghiệp hay đại ác nghiệp nhưng có tập khí đặt biệt mạnh thì sau khi mạng chung tập khí đặc biệt đó sẽ dẫn dắt đi đầu thai.
d/ Tùy duyên: Nhân duyên nào thành tựu trước thì sẽ thác sanh vào chốn đó.
e/ Tùy niệm: Trước khi tắt hơi niệm nào phát khởi thời sẽ dẫn dắt nơi chốn sanh về.
f/ Tùy nguyện: Tâm nguyện của người chết là gì thì sẽ quyết định nơi nào sẽ sanh về
5. Trợ niệm cho người lâm chung
6. Chết trong bình an, yên tĩnh
Thích Giải Hiền
Thạc sĩ Đông