Hám Sơn (1546-1623) (zh. hānshān) là một đại sư Phật giáo trong Thiền Tông và Tịnh Độ tông. Ông được mệnh danh là một trong 4 vị "thánh tăng" đời nhà Minh (Trung Hoa) (ba vị còn lại là Tử Bá hiệu Ðạt Quán, Liên Trì và Ngẫu Ích). Sư Hám Sơn là người để lại rất nhiều bài giảng dành cho mọi tầng lớp người trong xã hội bấy giờ.
Sau khi nhập diệt, sư đã để lại nhục thân không bị hư thối. Nhục thân của sư được đặt tại Tào Khê cùng với nhục thân của thiền sư Huệ Năng và thiền sư Đan Điền hiện nay thuộc chùa Hoa Nam huyện Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Lược sử
Đại sư Hám Sơn (hay còn gọi là Hám Sơn Đức Thanh) tên tục là Thái Đức Thanh, hiệu Trừng Ấn. Snh ngày 5 tháng 11 năm 1546 tại Toàn Tiêu, thuộc Châu Phủ Chúc Trừ nay thuộc về tỉnh An Huy. Vào sinh nhật đầu tiên (thôi nôi) sư đột nhiên bị bệnh trầm kha không chữa nổi. Mẹ ông đã phát nguyện với Phật Quán Thế Âm tại chùa là nếu ông thoát chết thì sẽ cho ông được xuất gia. Quả nhiên bệnh thuyên giảm. Thuở thơ ấu sư rất thường tư lự về nguyên do của vòng sinh tử. Trong toàn bộ cuộc đời sư có khỏe không được mạnh và thường bị các mụt nhọt lớn hành hạ thân xác.
Năm 11 tuổi, ông thuyết phục được người cha vốn không muốn cho con mình đi tu cho phép làm một sa di tại chùa Báo Ân nhưng vẫn chưa được chính thức xuất gia vì có sự ngăn trở của gia đình cho đến khi 19 tuổi mới được xuống tóc.
Năm 1571 sư bắt đầu hành cước vân du truyền giảng đạo pháp ở nhiều nơi.
Nhân một hôm đi hành kinh rồi nhập định. Sư không còn thấy thân tâm mình ở đâu nữa. Việc khai ngộ tâm tánh khiến sư viết lên bài kệ:
Khoảnh khắc nhất niệm, tâm cuồng ngưng Căn trần nội ngoại, đều thấu suốt Thân bay độc phá, thái hư không Vạn tượng sum la, từ đây diệt.
Năm đó sư được ba mươi mốt tuổi. Từ đây, ông đã vân du nhiều nơi và viết ra nhiều tác phẩm về Phật học. Đến năm 1595, nhân một vu cáo vì tranh chấp đất đai chùa Hải Ấn, ông bị giam cầm tra tấn ép cung dã man bắt ông nhận tội lấy 3000 lạng vàng công quỹ nhưng số tiền đó đã được chứng minh qua sổ sách triều đinh là được dùng trong việc cứu đói ở Sơn Đông (1593). Sau cùng, sư chỉ bị xử tội xây chùa trái phép, ông bị buộc hoàn tục lưu đày đến Lôi Châu (thuộc biên giới tỉnh Quảng Châu) vào tháng 11 năm 1596.
Trong lúc bị lưu đày, mặc dù đã hoàn tục nhưng ông vẫn tiếp tục công việc giảng pháp, chú giải và in ấn kinh sách Phật giáo. Cũng tại Quảng Châu, ông đã tiến hành giải hòa cho một xung đột có thể gây chết nhiều sinh linh giữa người Quảng Đông và các lái buôn Phúc Kiến. Nhờ việc này mà ông được tổng đốc Quảng Châu cho phép về và trùng tu lại Tổ đình Thiền tông ở Tào Khê (nơi Lục Tổ Huệ Năng đã từng hoằng pháp).
Năm 1606 nhân việc Thái tử nhà Minh sinh con trai, ông được tạm thời xá tội. Trong lúc này, ông vẫn phải ở lại tiếp tục hoằng pháp tại Tào khê và Quảng Đông cho đến khi lệnh chính thức ân xá ban (1610). Sau đó, ông đến Khuôn Sơn. Năm 1614 ông cạo tóc và sử dụng lại cà sa.
Năm 1622 ông về chùa Hoa Nam Tào Khê và thị tịch tại đó nhằm ngày 5 tháng 11.