Cứ mỗi độ tết về, con thấy ở các chùa thay vì treo các băng rôn như ở các cơ quan đoàn thể là “Chúc Mừng Năm Mới” thì lại có một số chùa lại treo “Mừng Xuân Di lặc”. Như vậy, danh hiệu Di lặc có nghĩa là gì ? Có phải chăng đây là một vị Bồ-tát hay Phật? Tại sao ngày thường Phật giáo không sử dụng danh hiệu này mà lại dùng vào dịp Tết đến ? Xin quý thầy giải thích cho con được hiểu.
Trước tiên, nhân dịp năm mới lại về chúng tôi xin chúc cho bạn luôn dồi dào sức khoẻ và đón một năm mới tràn đầy hạnh phúc. Điều bạn nghi vấn, có thể nói đây là một trường hợp chung mà nhiều người mới học Phật đều gặp phải.
Thỉnh thoảng chúng ta nghe ai đó nói rằng:
"Bụng to, má núng đồng tiền
Vây quanh sáu trẻ ngửa nghiêng reo hò"
Hình ảnh trong hai câu thơ trên đề cập đến đức Phật Di Lặc.
Danh hiệu Di Lặc phiên âm từ tiếng Sankrist là Maitreya, nghĩa là Từ Thị (Thị: họ; Từ: từ bi). Tiếng Anh gọi Ngài là Future Buddha (Đức Phật tương lai) hay là Smile Buddha (Đức Phật hoan hỷ). Bởi vì ngài tu tập hạnh Từ bi tam muội, tâm luôn trải lòng thương yêu rộng lớn và phát nguyện cứu độ mọi người.
Theo quan điểm Phật giáo, ngày mùng một tháng giêng là ngày kỷ niệm vía đức Di Lặc Bồ Tát, và sau này ngài sẽ là người giáo hóa ở Hội Long Hoa. Vì thế, trong phần tán thán và đảnh lễ ngài trong nghi thức tụng niệm hằng ngày, chúng ta thường nghe câu tụng "Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật". Điều này nhằm xác chứng rằng: ngài Di Lặc sẽ là vị Phật tương lai, được đức Phật Thích Ca thọ ký về sau sẽ thành Phật ở thế giới Ta-bà để tiếp tục giáo hóa độ sinh.
Ngoài ra, trong Kinh Di Lặc Hạ Sinh có chép rằng: “Hiện nay đức Di Lặc là một trong bốn vị Bổ Xứ Bồ Tát đang ở nội viên cung trời Đâu Xuất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp giảm thứ chín, đến kiếp tăng thứ mười, lúc ấy ngài sẽ hóa thân xuống cõi trần này trong nhà của một vị Bà La Môn tên là Tu Phạm Na. Thân mẫu của ngài tên là Phạm Na Bạt đề. Khi sanh ra Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh xuất chúng, lớn lên ngài xuất gia tu hành, đến núi Kê Túc để nhận lãnh Y Bát của đức Phật Thánh Ca, do Tổ Ma Ha Ca Diếp trao lại. Rồi Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng Kim Cang trí trừ sạch vô minh, chứng đắc Vô Thượng Bồ đề. Ngài bắt đầu thuyết pháp tại Giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được 96 ức người thành A-la-hán. Hội thứ hai độ được 94 ức người thành A La Hán. Hội thứ ba độ 92 ức người thành A-la-hán. Ví thế người ta thường gọi là "Long Hoa Tam Hội" là như vậy.”
Một trong những hóa thân của Ngài mà chúng ta thường nghe nhất đó là Bố Đại Hòa Thượng trong Phật Giáo Trung Hoa, một vị hòa thượng ở đất Minh Châu, huyện Phụng Hóa, Trung Hoa, ngài thường mang cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho gì cũng bỏ hết vào đãy mang đi. Về sau đến đời Lương, niên hiệu Trình Minh năm thứ ba, ngài nhóm họp đại chúng tại chùa Nhạc Lâm, ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:
“Di Lặc thật Di Lặc, Biến hóa trăm ngàn ức thân, Thường hiện trong cõi đời, Mà người đời chẳng ai tin biết”
Nói xong bài kệ, ngài an nhiên thị tịch. Có thể căn cứ theo hóa thân này, vì thế mà Phật giáo Việt Nam cũng như Trung Quốc thường tạc tượng thờ ngài với vẻ mặt hiền từ, miệng cười vui vẻ. Ngài tượng trưng cho nguồn an vui vô song, hoan hỷ vô tận cho nên tượng ngài được tạc theo hình ảnh một ông Phật to lớn, mập mạp, dáng ngồi rất tự tại, áo phanh ngực ra và miệng cười rạng rỡ. Trên người của Ngài còn có sáu đứa bé tinh nghịch, đứa móc tai, đứa sờ mũi, đứa kéo miệng.
Sáu đứa bé hay còn gọi lục tặc, ngồi trên người của Ngài là chỉ cho sáu căn: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý của chúng ta. Theo quan điểm Phật giáo khi tiếp xúc với sáu cảnh bên ngoài (lục trần) con người phàm phu chúng ta thường bị sáu trần: màu sắc, âm thanh, mùi hương, các vị, xúc cảm và các hiện tượng sự vật chi phối, từ đó mới phát khởi ra những trạng thái tâm như vui, mừng, giận, thương, ghét….Một khi sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh bên ngoài nếu chúng ta không làm chủ được chính mình, chúng ta sẽ bị ảnh hưởng, tác động của chúng. Đồng thời những bất an, thất vọng, khổ đau và sợ hãi sẽ chi phối chúng ta.
Vì thế mà có bài kệ rằng:
Mắt trông thấy sắc rồi thôi Tai nghe thấy tiếng, nghe rồi thì không. Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng, Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân.
Theo truyền thống từ lâu đời của Tổ Tiên, từ nơi đô thành cho đến nông thôn cứ vào ngày mùng một Tết Nguyên Ðán hằng năm, chúng ta cùng gia đình, thường hay đi chùa, lễ Phật tụng kinh, chí tâm cầu nguyện, chư Phật mười phương, thùy từ gia hộ, nhà cửa bình yên, gia đạo hạnh phúc đầu năm đến cuối năm. Ðồng thời chúng ta cũng gửi đến nhau những lời cầu chúc một năm tốt đẹp, vạn sự như ý, an lạc kiết tường. Trong nhà Phật, ngày mùng một Tết Nguyên Ðán đầu năm cũng là ngày vía đức Bồ Tát Di Lặc. Do đón người Phật tử đón xuân Di Lặc không phải đến chùa chỉ cầu phúc lộc cho đời sống cá nhân, như cầu về tiền tài, danh vọng mà phải phát tâm rộng lớn học theo hạnh nguyện của Đức Phật Di Lặc. Đó là tấm lòng gắn bó với tha nhân, nuôi lớn tâm từ và sự nhẫn nại, nỗ lực rèn luyện tâm linh, truyền bá lời Phật dạy giúp đời bớt khổ. Nếu chúng ta đón một mùa xuân Di Lặc với tinh thần như thế, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp nhận được nguồn pháp lạc vô biên trong giáo lý nhà Phật.
Ngoài ra nụ cười của đức Phật Di Lặc thầm nhắc nhở cho chúng ta hãy quên đi những ưu phiền, những vui buồn, thăng trầm, mất mát của cuộc sống. Chúng ta hãy để cho lòng thanh thản, nhẹ nhàng đón một năm mới đầy vui vẻ. Hãy luôn đem nụ cười hoan hỷ, chan chứa tình thương của Phật Di Lặc trao tặng cho người thân, đồng nghiệp trong dịp năm mới. Bởi vì:
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui Chuyện đời như nước chảy hoa trôi Lợi danh như bóng mây chìm nổi Chỉ có tình thương để lại đời