Sách Khác
Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc)

Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc)

Tác giả: Thích Chân Tính
Mục lục
Xem thêm
IV - 60. KINH CHUYỆN CÂY BỒ ĐỀ VÀ THÁNH ĐẾ KALINGA

60. KINH CHUYỆN CÂY BỒ ĐỀ

VÀ THÁNH ĐẾ KALINGA

(Tiền thân Kalinga-Bodhi)

(Kinh số 479, Chương 13, Tập 8, Tiểu bộ kinh)

Chuyện này bậc đạo sư kể trong khi trú tại Jetavana về việc tôn giả Ananda cử hành lễ cúng dường cây bồ đề.

Trong lúc đức Như Lai đi du hành vì mục đích thâu nhận những người đủ cơ duyên để thọ giáo, dân chúng thành Savatthi tiến đến Jetavana, tay cầm đầy vòng hoa thơm ngát, thấy không có nơi nào khác để tỏ lòng ngưỡng mộ sùng kính, liền đặt hoa bên cổng vào hương phòng của đức Phật rồi ra đi. Việc này đã gây được niềm hoan hỷ rất lớn. Song trưởng giả Anathapindika nghe được chuyện ấy, khi đức Như Lai trở về, vị trưởng giả liền đến thăm tôn giả Ananda và nói với ngài:

- Thưa tôn giả, tinh xá này không được cúng dường trong lúc đức Như Lai du hoá, và không có nơi nào cho dân chúng dâng hoa thơm để tỏ lòng sùng bái. Xin tôn giả từ bi thưa với đức Như Lai về vấn đề này để Ngài cho biết xem có thể tìm được nơi nào dùng vào mục đích này chăng?

Vị tôn giả kia sẵn sàng làm theo, liền thưa đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu loại bảo tháp?

- Này Ananda, có ba loại.

- Bạch Thế Tôn, đó là các loại nào?

- Bảo tháp thờ kim thân, bảo tháp thờ các vật thường dùng hay mang trên người và bảo tháp thờ các kỷ vật (ảnh tượng).

- Trong lúc Thế Tôn còn tại thế, có thể xây một bảo tháp được chăng?

- Không được, này Ananda, không thể xây một bảo tháp thờ kim thân, loại tháp đó chỉ được xây khi nào một đức Phật diệt độ (đắc Niết bàn vô dư y). Một bảo tháp thờ kỷ vật cũng không đúng đâu vì mối liên hệ chỉ tuỳ thuộc vào tâm tưởng mà thôi. Còn cây đại bồ đề đã được chư Phật sử dụng, nên rất đáng làm nơi chiêm bái, dù chư Phật còn tại thế hay diệt độ.

- Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn du hoá xa xôi, ngôi đại tinh xá Jetavana này không có nơi nương tựa, và dân chúng không có nơi nào để có thể tỏ bày lòng quy ngưỡng. Xin Thế Tôn cho phép con trồng một hạt giống từ cây đại bồ đề (ở Bồ Đề Ðạo Tràng) ngay trước cổng tinh xá này được chăng?

- Dĩ nhiên nên làm như vậy lắm, này Ananda, và nó cũng sẽ là một nơi an trú cho ta như trước kia.

Tôn giả này nói lại chuyện ấy với trưởng giả Anathapindika, bà Visakka và vua Pasenadi. Sau đó, tại cổng tinh xá Jetavana, tôn giả đào một lỗ để trồng cây bồ đề và nói với đại trưởng lão Moggallana:

- Tiểu đệ muốn trồng một cây bồ đề trước tinh xá Jetavana, xin tôn huynh kiếm cho tiểu đệ một quả bồ đề có được chăng?

Vị trưởng lão kia rất sẵn sàng đồng ý, liền bay qua không gian đến tận vùng đất có cây bồ đề ấy. Ngài lấy đặt dưới tấm y một quả bồ đề đang rụng ra khỏi thân cây nhưng không rớt xuống đất, và mang nó về giao cho tôn giả Ananda. Vị tôn giả này báo tin cho vua Pasenadi biết là mình sắp trồng cây bồ đề. Vì thế, buổi chiều vua đến cùng một đám tuỳ tùng đông đảo, sau đó ông Anathapindika và bà Visakka cũng đến cùng một đám người mộ đạo nữa.

Ở chỗ cây bồ đề sắp được trồng, tôn giả Ananda đặt một chiếc bình vàng, dưới đáy có lỗ, đựng đầy đất rưới nước hương thơm ngát. Tôn giả bảo:

- Tâu đại vương, xin hãy trồng hạt giống bồ đề này.

Và tôn giả trao hạt ấy cho vua. Song vua nghĩ rằng vương quốc này không ở trong tay mình mãi được, nên để cho ông Anathapindika trồng, liền giao hạt giống cho vị trưởng giả đại phú kia. Sau đó, ông Anathapindika xới đất thơm lên và thả hạt giống vào. Vừa lúc hạt rơi ra khỏi tay vị ấy, ngay trước mắt mọi người, vọt lên một cây bồ đề con, to cỡ bằng đầu lưỡi cày, cao chừng năm mươi cubit (1 cubit = 45cm) tứ phía nảy ra năm cành lớn dài 50 cubit, như thân cây ấy. Cây đứng sừng sững như thế quả là một chúa tể rừng xanh, một phép lạ hy hữu thần kỳ.

Vua tưới quanh thân cây những bình bằng vàng, bằng bạc, tất cả tám trăm bình đựng đầy nước toả hương thơm ngát, tươi đẹp với vô số hoa sen xanh. Bao giờ cũng vậy, vua ra lệnh tất cả một dãy dài bình bát đựng đầy thực phẩm và một sàng toạ làm bằng bảy báu vật, có lớp nhũ vàng rảy lên, rồi dựng một bức tường bao quanh vùng ấy, lại xây một nhà canh cổng làm bằng bảy báu vật. Vua bày tỏ lòng sùng kính đặc biệt, trọng thể như vậy đối với cây bồ đề.

Trưởng lão Ananda đến gần đức Như Lai và thưa với Ngài:

- Bạch đức Thế Tôn, vì lợi lạc của chúng sinh, xin Thế Tôn thị hiện ngay dưới cây bồ đề con vừa mới trồng này sự chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Thế Tôn đã thành tựu dưới gốc cây bồ đề trước kia.

- Này Ananda, ông nói gì thế? Không có nơi nào khác có thể chịu đựng nổi sức mạnh của ta nếu ta ngồi nơi đó để chứng đắc quả vị mà ta đã chứng đắc trong khu vực có cây đại bồ đề trước kia cả đâu.

Tôn giả Ananda lại nói:

- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn vì lợi lạc của chúng sinh mà dùng cây bồ đề này làm nơi nhập đại định, bao lâu mặt đất chốn này đủ sức chịu đựng sức mạnh của Thế Tôn.

Bậc đạo sư liền sử dụng nơi mới trồng cây bồ đề ấy để nhập đại định suốt một đêm.

Tôn giả Ananda liền thông báo với vua và mọi người, rồi cử hành đại lễ cúng dường cây ấy, gọi đại lễ này bằng cái tên “Hội bồ đề”. Và cây bồ đề này do tôn giả Ananda trồng nên được đặt tên là Cây bồ đề của Ananda.

Vào thời ấy, Tăng chúng bắt đầu nói đến việc trên tại chánh pháp đường:

- Này hiền hữu, ngay khi đức Như Lai còn tại thế, tôn giả Ananda đã xin trồng một cây bồ đề và cử hành đại lễ cúng dường cây ấy. Uy lực của tôn giả thật cao cả thay!

Bậc đạo sư đi vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị thưa với Ngài, Ngài bảo:

- Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ananda hướng dẫn hội chúng loài người trên khắp bốn châu thế giới cùng các đám tuỳ tùng đông đảo mang đến vô số vòng hoa thơm và mở Hội bồ đề trong vùng đạo tràng quanh cây bồ đề kia đâu.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, trong vương quốc Kalinga, tại kinh thành Dantapura, có một vị vua mệnh danh là Kalinga cai trị. Vua có hai vương tử tên là Maha Kalinga và Culla Kalinga. Thời ấy, các nhà tiên tri đã đoán rằng vị thái tử sẽ cai trị sau khi vua cha băng hà, còn vị vương đệ sẽ trở thành nhà tu khổ hạnh, sống đời khất sĩ; tuy thế, con trai vị sau này sẽ làm một đấng Chuyển luân vương (vị vua ngự trị toàn cầu bằng chánh pháp).

Thời gian trôi qua và khi vua cha băng hà, thái tử lên ngôi báu, còn vương đệ làm phó vương. Vị vương đệ cứ nghĩ rằng con trai mình sau này sẽ là một Chuyển luân vương, nên sinh lòng kiêu mạn về cớ đó. Vua không chịu được chuyện này, liền ra lệnh cho một vị sứ thần truy bắt phó vương Kalinga. Vị sứ giả kia đi đến bảo:

- Tâu điện hạ, đại vương muốn sai bắt ngài, vậy ngài hãy lo cứu mạng mình.

Vương tử này liền chỉ cho vị sứ thần được giao trọng trách này thấy chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình, một tấm thảm thật đẹp và một cây kiếm. Có ba bảo vật tất cả. Rồi vương đệ bảo:

- Khanh phải nhận ra được vương nhi ta nhờ những tín vật này và phò vương nhi lên ngôi báu.

Cùng với những lời dặn dò này, vương tử vội trốn vào rừng. Tại đó, chàng dựng một am thất ở một nơi đẹp, vừa ý và sống như người tu khổ hạnh trên một bờ sông.

Lúc bấy giờ, trong vương quốc Madda, ở kinh thành Sagala, vua Madda vừa hạ sinh một công chúa. Về phần công chúa này, cũng như vương tử kia, các nhà tiên tri đoán rằng nàng sẽ phải làm nhà tu khổ hạnh, song con trai nàng lại sẽ thành một Chuyển luân vương. Các vị vua ở Jambudvipa nghe tin đồn ấy, liền đồng một lúc đến bao vây kinh thành.

Vua nghĩ thầm: “Nay ta gả con gái ta cho một quốc vương nào thì các vị vua kia sẽ nổi giận. Vậy ta phải cố gắng cứu mạng con gái ta.”

Vì thế, vua cùng hoàng hậu và công chúa cải trang trốn vào rừng, và sau khi dựng một am thất hơi xa bờ sông, phía trên thảo am của vương tử Kalinga, họ cùng sống tại đó như người tu khổ hạnh, ăn toàn những thứ cây trái lượm hái được.

Hai vị cha mẹ muốn con gái được an ổn, nên để nàng ở lại trong am, rồi đi ra hái trái rừng. Trong lúc hai vị đi vắng, nàng lượm đủ các loại hoa kết thành vòng hoa. Bấy giờ, trên bờ sông Hằng có một cây xoài nở hoa đẹp, tạo thành một cái thang thiên nhiên. Nàng trèo lên đó, đùa chơi và tìm cách thả vòng hoa xuống nước.

Một ngày kia, vương tử Kalinga vừa bước ra khỏi nước sau khi tắm thì vòng hoa nọ vướng lên tóc chàng.

Chàng nhìn hoa và bảo:

- Một nữ nhân nào đã kết hoa này, song đó không phải là một người đàn bà trưởng thành mà là một cô gái còn thơ dại. Ta phải kiếm nàng mới được.

Thế là chàng đâm ra si tình, đi lên phía thượng lưu sông Hằng, cho đến khi chàng nghe nàng ca hát bằng một giọng ngọt ngào trong lúc ngồi trên cây xoài. Chàng đến gần gốc cây, vừa thấy nàng liền bảo:

- Này giai nhân, nàng là loài gì thế?

- “Thưa công tử, thiếp là người.” Nàng đáp.

- “Thế thì hãy xuống đi.” Chàng bảo.

- Thưa công tử, không được, vì thuộc dòng dõi Sát- đế-lỵ.

- Thưa công nương, ta cũng vậy, xin nàng bước xuống.

- Thưa công tử, không được, thiếp không xuống đâu. Lời nói không làm nên một Sát-đế-lỵ. Nếu quả thật ngài là một vị Sát-đế-lỵ, xin hãy kể cho thiếp nghe những điều bí mật của nghi lễ truyền thống kia.

Sau đó, hai người nói cho nhau nghe những điều bí mật truyền kỳ trong dòng họ. Rồi công chúa bước xuống và hai bên kết giao với nhau.

Khi cha mẹ nàng trở về, nàng kể cho hai vị nghe chuyện vương tử của vua Kalinga, vì sao chàng vào rừng với đầy đủ mọi chi tiết. Hai vị bằng lòng đem gả nàng cho chàng. Trong thời gian sống chung sắt cầm hoà hợp, công chúa thụ thai và sau mười tháng, hạ sinh một nam tử đầy đủ tướng mạo tốt lành, phước đức và đặt tên là Kalinga. Cậu trai lớn lên, học tập đủ mọi nghệ thuật tài năng từ thân sinh và tổ phụ chàng.

Về sau, cha chàng nhìn theo cách kết hợp của ngôi sao và biết được vương huynh đã băng hà. Vì thế, ông gọi con trai vào và bảo:

- Này con, con không nên phí cuộc đời trong rừng già buồn tẻ, vì vương huynh ta, đại vương Kalinga ấy đã qua đời. Vậy con phải về Dantapura và kế vị vương quyền của dòng họ ta.

Sau đó, người cha trao cho con các vật mang theo mình là chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng, tấm thảm và thanh kiếm rồi bảo:

- Này con, trong kinh thành Dantapura, ở phía kia, có một vị đại thần vốn là bề tôi thân tín của cha. Con hãy đến nhà vị ấy, đi thẳng vào phòng riêng, đưa cho ông thấy ba vật này, rồi nói cho ông biết con là con của ta. Ông sẽ đưa con lên ngai vàng.

Chàng trai giã từ cha mẹ và ông bà, và nhờ thần lực công đức của chàng, chàng bay qua không gian, xuống nhà vị đại thần nọ, đi thẳng vào phòng riêng của vị ấy.

- “Công tử là ai?” Vị quan hỏi.

Chàng đáp:

- Ta là con trai của tiểu vương Kalinga.

Rồi chàng rút ba tín vật ấy ra. Vị quan liền báo tin cho cả hoàng cung, các triều thần liền trang hoàng kinh thành và giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu chàng. Sau đó, vị tế sư của triều đình tên là Kalinga - Bhavadvaja dạy chàng mười pháp mà một Chuyển luân vương phải thành tựu và chàng học tất cả mười phận sự ấy.

Thế rồi vào một ngày rằm, tức là ngày trai giới, từ Cakkadaha xuất hiện cho vua bánh xe báu, từ dòng họ Uposatha xuất hiện voi báu, từ giống quý tộc Valaha xuất hiện ngựa báu, từ Veppulla xuất hiện bảo châu, kế là nữ vương báu cùng đám tuỳ tùng thị nữ và vương tử báu dần dần xuất hiện.

Sau đó, vua thống trị toàn cõi địa cầu.

Một ngày kia, ngài được đám tuỳ tùng hộ tống suốt ba mươi sáu dặm đường, ngự trên bảo tượng toàn thắng, cao như đỉnh núi Kelasa. Trong cảnh uy nghi lộng lẫy, ngài trở về thăm song thân chốn cũ. Nhưng khi muốn vượt qua vùng đất quanh cây đại bồ đề, bảo toạ vinh quang của chư Phật, nơi đã trở thành trung tâm điểm của vũ trụ, thì voi báu không thể nào qua được. Vua cứ thúc voi mãi, song voi vẫn không thể nào vượt qua.

Ðể giải thích việc này, bậc đạo sư ngâm vần kệ đầu:

Kalinga thánh đế, Chuyển luân vương,

Chân chánh, ngài cai trị cõi trần,

Một thuở đến bồ đề đại thọ,

Trên mình voi báu đại oai thần.

Do đó, vị tế sư của triều đình cùng du hành với vua thầm nghĩ: “Trên không gian chẳng có gì cản trở cả, tại sao đức vua không giục voi qua được? Ta muốn đến xem sao”. Từ trên không hạ xuống, vị này chiêm ngưỡng bảo toạ vinh quang của chư Phật và khu vực quanh cây đại bồ đề.

Thời ấy, tương truyền rằng trong khoảng chừng một dặm vuông ấy không bao giờ có một ngọn cỏ mọc, dù chỉ bằng một sợi lông nhỏ, mặt đất như thể cát mịn, bốn bề là thảo mộc, cát đằng và đại thọ chẳng khác nào chúa tể sơn lâm sừng sững như đang chiêm ngưỡng, đầu quay mặt về hướng bảo toạ bồ đề. Khi vị Bà-la-môn tế sư quan sát chỗ này, lại suy nghĩ: “Ðây là nơi chư Phật đã đoạn tận mọi dục tham của trần thế nên không ai có thể vượt qua được, dù cho đó chính là thiên chủ Sakka đi nữa.”

Và tiến về phía đức vua, vị tế sư tâu với ngài các đặc tính của địa phận quanh cây bồ đề, cùng thỉnh cầu thánh vương ngự xuống voi.

Ðể giải thích vấn đề này, bậc đạo sư ngâm các vần kệ sau:

Vị tế sư tâu với thánh vương,

Là con nhà khổ hạnh hiền nhơn,

Khi ngài chuyển vận xa luân báu,

Ðảnh lễ ngài xong, hướng dẫn đường:

“Ðây các thi nhân vẫn tán dương,

Xin ngài ngự xuống, tấu hùng vương,

Nơi đây chư Phật-đà vô thượng

Chánh Giác viên thành toả ánh quang.

Tương truyền rằng ở chốn phàm trần,

Ðây chính là linh địa thánh thần,

Thảo mộc, cát đằng, cùng đại thọ

Ðứng quanh trong dáng điệu tôn sùng.

Xuống đây, xin đảnh lễ trang nghiêm,

Vì đến miền xa tận hải biên,

Trên đại địa cầu nuôi vạn vật,

Nơi này là đất thánh thiêng liêng.

Ðại vương đầy đủ mọi loài voi

Thuần chủng nhờ cha mẹ tốt đôi,

Ngự giá đến đây, voi vẫn muốn,

Song không thể tiến bước gần nơi.

Ngự trên mình bảo tượng thuần nòi,

Thánh ý tuy nghi, cứ thúc voi,

Song chẳng cách nào voi bước nữa,

Ðến đây, voi phải đứng yên thôi.”

Vua nghe lời nói vị tiên tri,

Vừa phán truyền cho bảo tượng đi,

Vừa thúc gậy sâu vào bảo tượng:

“Nếu vầy, ta sẽ thấy liền khi.”

Bị thúc, voi kêu thét tựa kèn,

Như còi lanh lảnh, hạc vang rền,

Chuyển rung, liền ngã vì hùng lực

Ðè nặng sườn, không thể đứng lên.

Vì cứ bị đức vua thúc mãi, voi không thể nào chịu được cơn đau đớn, nên phải chết ngay. Song đức vua không biết là voi đã chết, cứ điềm nhiên ngự trên lưng voi. Một lát sau, tế sư Kalinga - Bharadvaja nói:

- Tâu thánh thượng, vương tượng đã chết rồi, xin thánh thượng ngự qua voi khác.

Bậc đạo sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

Quốc sư lo sợ lúc nhìn voi

Ðã chết, lòng kinh động thốt lời:

“Xin tìm voi khác, tâu đại vương,

Bảo tượng ngài nay bỏ mạng rồi.”

Nhờ công đức và thần lực của vị thánh vương, một con voi khác thuộc chủng loại Uposatha xuất hiện trước đức vua và đưa lưng ra mời. Vua ngự trên lưng nó. Lúc ấy thi thể vương tượng kia liền ngã xuống đất.

Bậc đại sư ngâm vần kệ để giải thích việc này:

Vua hãi kinh nghe tấu việc này,

Ngự lên voi khác, bỗng liền ngay,

Thi hài bảo tượng kia nhào xuống,

Lời thật tiên tri đã hiển bày.

Lập tức vua ngự xuống từ trên không gian, và chiêm ngưỡng vùng đất quanh cây bồ đề. Trước việc thần kỳ kia vừa thị hiện xong, đức vua tán thán vị tế sư Bharadvaja qua vần kệ:

Thế này, với vị tế sư mình,

Ðại đế Kalinga bảo: “Thực tình

Mọi việc khanh am tường thấu suốt,

Hiền khanh thấy tất cả duyên sinh.”

Bấy giờ, vị Bà-la-môn kia không muốn nhận lời tán thán trên, mà vẫn giữ nguyên vị trí khiêm tốn của mình, ông tán thán công đức chư Phật và ca tụng các Ngài hết lời.

Bậc đạo sư lại ngâm kệ để giải thích vấn đề:

Quốc sư từ chối sự tuyên dương

Và tấu như vầy với thánh vương:

“Thần chỉ biết điềm vùng tướng triệu,

Còn chư Phật giác ngộ hoàn toàn.

Phật-đà tri kiến đạt toàn chân,

Ðiềm triệu, các Ngài chẳng chú tâm,

Chư Phật toàn tri nhờ tuệ quán,

Thần là học giả chẳng uyên thâm.”

Vua nghe nói về công đức của chư Phật, nên lòng đầy hoan hỷ, liền ban lệnh cho mọi người trần thế đem thật nhiều vòng hoa thơm đến cúng dường vùng đất quanh linh thọ bồ đề suốt bảy ngày đêm liền.

Bậc đạo sư ngâm đôi vần kệ để giải thích việc này:

Thánh thọ bồ đề, chúa cúng dường,

Với bao âm nhạc thật du dương,

Các vòng hoa đẹp thơm ngào ngạt,

Ngài lại xây quanh một bức tường.

Thế rồi thánh đế ngự ra về,

Mang đến hoa đầy sáu vạn xe,

Làm lễ cúng dường, vì đại đế

Kalinga sùng thánh địa bồ đề.

Sau khi đã làm lễ cúng dường trọng thể đại thọ Bồ-tát như trên, đức vua thăm song thân, rồi rước hai vị về thành Dantapura sống cùng ngài. Tại đấy ngài chuyên bố thí và làm các phận sự khác, cho đến khi mạng chung ngài được tái sinh vào cõi trời Ba Mươi Ba.

***

Sau khi chấm dứt pháp thoại trên, bậc đạo sư bảo:

- Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ananda làm lễ cúng dường cây bồ đề, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

- Vào thời ấy Ananda là vua Kalinga và ta chính là vị tế sư Kalinga - Bharadvaja.

Sách cùng thể loại
Kinh Nhật Tụng
Kinh Nhật Tụng
Chùa Hoằng Pháp
Kinh Trường Thọ Diệt Tội
Kinh Trường Thọ Diệt Tội
Người Dịch:
Thánh Đức Và Sự Linh Ứng của Bồ - Tát Địa Tạng
Thánh Đức Và Sự Linh Ứng của Bồ - Tát Địa Tạng
Nhiều tác giả
Tây Phương An Lạc Tập
Tây Phương An Lạc Tập
Đại Sư Đạo Xước
Những Câu Chuyện Về Nhân Quả
Những Câu Chuyện Về Nhân Quả
Thích Tâm Thuận
Niệm Phật Thoát Sanh Tử
Niệm Phật Thoát Sanh Tử
Thích Nữ Tuệ Uyển