Sách Khác
Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc)

Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc)

Tác giả: Thích Chân Tính
Mục lục
Xem thêm
IV - 63. KINH CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG BHALLATIYA (Tiền thân Bhallatiya)

63. KINH CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG BHALLATIYA

(Tiền thân Bhallatiya)

(Kinh số 504, Chương 15, Tập 8, Tiểu bộ kinh)

Câu chuyện này bậc đạo sư kể trong lúc trú tại Jetavana về hoàng hậu Mallika.

Một buổi kia, chuyện kể rằng có việc xích mích giữa hoàng hậu và vua về quyền lợi trong đời sống nội cung, vua nổi giận và không muốn nhìn mặt bà. Bà suy nghĩ: “Ta chắc đức Như Lai không biết đức vua đang giận hờn ta.”

Khi bậc đạo sư biết chuyện ấy, ngày hôm sau, Ngài đi vào khất thực tại Savatthi có Tăng chúng theo hầu, rồi đến tận cung môn. Vua bước ra đón Ngài và cầm lấy bình bát của Ngài, vừa rước Ngài lên thượng lầu, mời Tăng chúng ngồi theo thứ tự thích hợp, rồi dâng nước chào mừng cùng với thực phẩm thượng vị. Sau buổi cơm, vua ngồi xuống một bên. Bậc đạo sư hỏi:

- Tại sao hoàng hậu Mallika không đến?

Vua đáp:

- Chỉ vì lòng kiêu mạn ngu si về cảnh vinh quang của bà ta đấy.

Bậc đạo sư bảo:

- Này đại vương, xưa kia, đã lâu lắm rồi, khi đại vương còn là một tiên nam, đại vương rời xa bạn đời của mình chỉ một đêm thôi mà về sau cứ mãi thương tiếc cả bảy trăm năm đó.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Một thuở nọ, có một vị vua tên là Bhallatiya trị vì tại Baranas. Do nỗi say mê món thịt nai rừng bốc khói trên hoả lò lôi cuốn, ngài giao phó vương quốc cho các đại thần, rồi trang bị đủ năm thứ vũ khí cùng một bầy chó săn thông minh tinh luyện, ngài lên xa giá rời kinh tiến về vùng Tuyết Sơn. Ngài cứ du hành dọc theo sông Hằng mãi tận nơi không còn lên cao được nữa, liền đi theo một phụ lưu thêm vài đoạn đường, vừa giết nai, lợn rừng vừa thưởng thức món thịt nướng kia, cho đến khi ngài trèo lên tận đỉnh Gandhamadana (Hương Sơn) cao chót vót.

Nơi đó có một con suối đầy thi vị chảy xuống khắp vùng, nước cao lên tận ngực, song vào các mùa khô ráo chỉ gần đến đầu gối. Các đàn cá, rùa, đủ loại tung tăng; dải cát dưới nước sáng loáng như bạc; cây cối hai bên bờ rủ xuống nặng trĩu hoa trái; chim chóc, ong bướm say sưa hút nước trái chín và mật ong, bay lượn dưới bóng cây râm mát; từng đàn hươu nai đủ loại vẫn lai vãng luôn. Bấy giờ, trên bờ suối xinh đẹp này có đôi tiên đang ôm chặt nhau, âu yếm, vuốt ve nhau rồi bỗng cất tiếng khóc than rền rĩ vô cùng thảm thiết.

Trong lúc vua trèo lên đỉnh Gandhamadana, men theo dòng suối này, ngài chợt nhận thấy đôi tiên kia. Ngài suy nghĩ: “Tại sao họ cứ khóc than rền rĩ như thế này? Ta muốn hỏi xem sao”. Ngài chỉ cần liếc bầy chó săn và búng ngón tay, bầy chó thuần chủng thấy dấu hiệu này là hiểu ngay phần việc của chúng, liền bò vào dưới bụi rậm và nằm sát đất. Vừa khi ngài thấy chúng đã khuất dạng, ngài đặt cung tên cùng các vũ khí kia cạnh gốc cây gần đó và rón rén đi nhẹ nhàng đến gần đôi tiên để khỏi ai nghe lọt bước chân, rồi ngài cất tiếng hỏi:

- Tại sao các ngươi than khóc?

Ðể giải thích việc này, bậc đạo sư ngâm ba vần kệ:

Ngày xưa có đại đế Bhalla,

Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,

Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy

Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.

Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,

Ðặt các cung tên xuống đất liền,

Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,

Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:

“Ðông đã qua, sao lại trở về

Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?

Các ngươi sao giống phàm nhân quá,

Ngươi gọi loài gì, nói trẫm nghe.”

Nghe vua hỏi, vị tiên nam không nói gì, nhưng tiên nữ đáp lại như sau:

Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã-la,

Chúng thần men suối mát, băng qua,

Thú rừng cứ tưởng là người thật,

Song bọn đi săn gọi quỷ ma.

Kế đó vua ngâm ba vần kệ:

Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,

Song lại khóc than thật não nùng,

Tiên chúng giống như người thế tục,

Cớ sao than khóc, hãy phân trần!

Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,

Song khóc đầy ai oán, thảm thương,

Ðôi lứa khác nào người thế tục,

Sao sầu đau thế? Nói cho tường!

Như các tình nhân, cứ vuốt ve,

Song lời than khóc thật lê thê,

Các ngươi trông giống người trần tục,

Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!

Các vần kệ sau là do đôi bên đối đáp nhau:

Tiên nữ:

Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,

Không tình ân ái, nặng u sầu,

Tương tư, song chẳng bao giờ có

Ðêm ấy trở về được nữa đâu.

Quân vương:

Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,

Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?

Ðôi trẻ giống như người thế tục

Mất tiền, hay lão phụ từ trần?

Tiên nữ:

Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,

Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,

Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,

Nên tình quân đã lội qua bờ.

Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,

Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,

Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu

Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.

Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,

Thuỷ tiên trắng mát đượm sương lành

Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ

Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.

Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng

Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,

Ðể kết liền cho chàng với thiếp

Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.

Kế hoa là lá, thiếp đi tìm

Về trải đầy trên mặt đất mềm

Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,

Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.

Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền

Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,

Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu

Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!

Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,

Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng,

Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,

Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!

Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,

Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,

Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,

Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!

Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,

Khi nhìn con suối cạn khô mau,

Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,

Lập tức cùng cười, khóc với nhau!

Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,

Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,

Tim yêu tan nát sầu ly biệt,

Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!

Quân vương:

Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?

Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,

Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,

Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.

Tiên nữ:

Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,

Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,

Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,

Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!

Khi vua nghe vậy, ngài suy nghĩ: “Các sinh vật này thấp kém còn hơn loài người, thế mà vẫn khóc than mãi suốt bảy trăm năm ròng chỉ vì một đêm xa cách nhau, huống hồ ta đây, chúa tể cả một quốc độ rộng ba trăm dặm, lại đành bỏ hết cả vinh quang huy hoàng ấy đằng sau để phiêu bạt trong chốn núi rừng hoang dã. Thật là một sai lầm nghiêm trọng.”

Ngài liền quay về lập tức. Khi đến thành Baranas, triều thần hỏi ngài có thấy việc gì hy hữu ở vùng Tuyết Sơn chăng, ngài kể cho hội chúng nghe toàn thể câu chuyện kỳ dị kia, rồi từ đó về sau ngài thực hành bố thí và an hưởng cảnh vinh hoa của mình.

Ðể giải thích việc này bậc đạo sư ngâm vần kệ sau:

Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vầy,

Ðại vương trở lại bước đường ngay,

Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,

An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.

Và Ngài ngâm thêm hai vần kệ nữa:

Rút ra bài học của tiên kia,

Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,

Kẻo các ngài sầu như bọn chúng

Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.

Lấy ngay bài học tự đôi tiên,

Ðừng khẩu tranh, mà sửa thói quen,

Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng

Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.

Bấy giờ hoàng hậu Mallika đứng dậy từ bảo toạ khi bà nghe đức Như Lai thuyết giáo, rồi bà chấp hai tay đảnh lễ Ngài rất cung kính, trong lúc bà ngâm vần kệ cuối cùng:

Giờ đây kính bạch thánh nhân,

Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,

Con nghe được các lời vàng,

Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,

Muôn vàn phước đức tôn sư!

Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền.

Từ đó về sau, vua Pasenadi chung sống sắt cầm hoà hợp với hoàng hậu mãi mãi.

***

Khi pháp thoại này chấm dứt, bậc đạo sư nhận diện tiền thân:

- Vào thời ấy, vua Pasenadi là vị tiên nam, hoàng hậu Mallika là tiên nữ và ta chính là vua Bhallatiya.

Sách cùng thể loại
Kinh Nhật Tụng
Kinh Nhật Tụng
Chùa Hoằng Pháp
Kinh Trường Thọ Diệt Tội
Kinh Trường Thọ Diệt Tội
Người Dịch:
Thánh Đức Và Sự Linh Ứng của Bồ - Tát Địa Tạng
Thánh Đức Và Sự Linh Ứng của Bồ - Tát Địa Tạng
Nhiều tác giả
Tây Phương An Lạc Tập
Tây Phương An Lạc Tập
Đại Sư Đạo Xước
Những Câu Chuyện Về Nhân Quả
Những Câu Chuyện Về Nhân Quả
Thích Tâm Thuận
Niệm Phật Thoát Sanh Tử
Niệm Phật Thoát Sanh Tử
Thích Nữ Tuệ Uyển