Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Cư sĩ tên Thiện, tự là Thủy Nhược, nếu hiểu rõ tên này, nhận biết tự này thì đối với đạo lý thấy tánh thành Phật đã nhận rõ hơn phân nửa.
Cáo Tử nói: “Tánh giống như nước chảy, nếu khơi dòng về phương Đông thì chảy về Đông; khơi dòng về phương Tây thì chảy về Tây. Tánh người không phân biệt thiện và bất thiện, cũng như nước không phân ra Đông và Tây”.
Kỳ lạ thay! Lời của Cáo Tử nói về tánh, tuy chẳng phải nghĩa lý cùng tột trong nhà Nho mà lại giống với Khế kinh của đức Phật. Rất tiếc là Cáo Tử bị đuối lý bởi biện luận của Mạnh Tử nên cuối cùng không thể giải bày được học thuyết của mình. Điều ấy cũng như mọt ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ.
Mười pháp giới vốn từ một tâm thuần nhất thì pháp thiện và bất thiện đều đầy đủ nơi tâm tánh. Điều đó đã rõ ràng rồi! Bảo rằng: trong Tánh có chủng tử nhiễm và tịnh nên không có một pháp thế gian và xuất thế gian nào có thể vượt ngoài Tánh. Noi theo chủng tử tịnh trong Tánh mà phát khởi hiện hành, đó là đạo của người quân tử, như thế gọi là tu thiện, noi theo chủng tử nhiễm trong Tánh mà phát khởi hiện hành, đó là đạo của kẻ tiểu nhân, như thế gọi là làm ác. Sách Trung Dung nói: “Thuận theo Tánh là Đạo”. Khổng Tử nói: “Đạo có hai: nhân và bất nhân mà thôi”. Đạo không phân chia nhân và bất nhân, thì tánh không phân biệt thiện hay bất thiện. Nếu Tánh chỉ là thiện thì tất cả đều là thiện. Vậy thì nẻo ác ba đường chẳng phải do tâm tạo ra, đâu thể gọi là pháp giới? Thế nên, hàng Nhất Xiển-đề tuy đoạn dứt việc Tu thiện nhưng không đoạn dứt Tánh thiện. Nếu đoạn dứt Tánh thiện thì rốt cuộc không thể thành Phật. Chư Phật, Thánh nhân chỉ đoạn dứt việc làm ác nhưng không đoạn trừ Tánh ác. Nếu đoạn trừ Tánh ác thì không thể thị hiện nơi thế giới xấu ác để điều phục chúng sinh.
Sự quan hệ của việc Tu và Tánh là
điều nên thấu suốt. Đã không thể lìa Tánh để khởi Tu, cũng không thể bỏ việc Tu mà nói về Tánh.
Xin lấy nước để nói về điều này:
Nói về Tánh thì nước vốn là ướt nên chảy xuống, chảy về Đông, về Tây.
Nói về Tu là khơi dòng về phương Đông hoặc khơi dòng về phương Tây.
Cư sĩ muốn tu Tịnh nghiệp, có thể không quan tâm danh nghĩa mà phải xét kỹ lý do tu hành pháp ấy.
Nếu như trong lòng niệm niệm hướng về chạy theo tham sân si, ngày dài tháng rộng kéo không trở lại, dẫn chẳng chịu ra. Những hành động phát ra từ thân, miệng, phần nhiều hợp với điều ác thì gọi là khơi dòng về phương Đông, rốt cuộc sẽ làm người và vật trong mảnh đất Ta-bà.
Nếu trong lòng niệm niệm rời bỏ chán nản ngũ dục, tưởng nhớ Phật A-di-đà, mong muốn thân cận như con nhớ mẹ, chẳng bị cảnh nghiệp kéo lôi, chẳng bị lối rẽ khác làm mê lầm thì gọi là khơi dòng về phương Tây, nhất định hóa sinh trong hoa sen ở thế giới Cực Lạc thấy Phật được thọ ký.
Do đó mà xét, thấy tánh thành Phật, cũng ở nơi sự “khơi dòng” mà thôi. Nếu có thể khơi dòng về phương Tây, thì nước chảy về phương Tây, không vào trong vạc nước sôi nơi ba đường ác, không xen tạp nước khát ái của người và trời, không lẫn lộn nước vẫn đục của phàm phu, không thấm nước ác của tà ma ngoại đạo, không rơi vào nước chết của Nhị thừa[1], không đồng với nước dâng lên thình lình của Quyền thừa, thường được nước Lý thấm nhuần ruộng tâm, nước Trí để viên dung vạn hạnh.
Ngay trong địa vị “Danh tự” mà hòa hợp trọn vẹn với nước Tánh của Như Lai. Đã được hòa hợp với nước Tánh thì dung hội về trong ao thất bảo là tinh khiết, là trong mát, là ngọt ngào, là mềm mại, là thấm nhuần, là an hòa, là trừ bệnh, là tăng ích, rốt ráo trở thành nước Thánh có đủ tám công đức. Nước chảy về Tây, đến đây là cùng tột, thật có thể thấu suốt đến chỗ tận cùng Tánh của nước.
Song, tôi xét Danh và Tự của cư sĩ là theo ý của Mạnh Tử, chẳng phải theo nghĩa của Cáo Tử.
Nếu như quyết chọn pháp thiện mà tu tập được tròn đầy, quyết phá trừ pháp bất thiện, tu tập để trừ bỏ cho hết thì Đạo của quân tử tăng trưởng, Đạo của tiểu nhân tiêu tan, cuối cùng dừng lại ở chỗ thiện cùng tột. Thế thì đâu không hợp với Cáo Tử, đâu không hợp với Tuyên Thánh, đâu không hợp với Đại Thánh nhân ở phương Tây.
Cư sĩ có dốc sức “khơi dòng” ấy chăng?
*
[1] Nhị thừa: hai loại giáo pháp của đức Phật được ví như hai cỗ xe chở người đến quả vị giải thoát. Đó là Thanh văn thừa và Duyên Giác thừa.