Pháp Môn Tịnh Độ
Phần 11

Phần 11

 

Dung hội cho Hành giả Tam Giai . Hành giả Tam Giai có năm mối nghi nhỏ.

 

1. Hỏi: Chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi chịu nhiều khổ não. Truy tìm nguyên do đều phát khởi từ ba tà độc. Nay chuyên tâm niệm Phật, nguyện vãng sinh Tây Phương, tà độc càng tăng trưởng, há chẳng phải là kiến giải điên đảo ư? Vì sao? Bởi vì cõi Ta-bà ô trược, lẽ ra phải thường ở, nhưng lại sinh nhàm chán xả bỏ, đó chính là Tà sân. Tây Phương Tịnh độ là nơi chư Thánh qua lại, không phải chỗ ở của phàm phu mà lại phát nguyện sinh về, tức là Tà tham. Sở dĩ như thế đều là do vô minh, đó là Tà si. Đây là ba mầm độc chất chứa trong ruộng tâm, giả sử có niệm Phật, thì cũng chiêu cảm đến thần, ma, quỷ…, làm sao được vãng sinh Tịnh độ?

Đáp: Giáo chỉ có sai khác, nhưng đều mong muốn làm lợi ích muôn loài, người học khéo biết lấy bỏ, mỗi mỗi tùy theo cơ duyên. Vì sao? Nếu như ngộ được Vô sinh, lẽ ra có thể ở lâu trong cõi Ta-bà, nhưng nếu chưa chứng được giai vị Bất thoái thì khó trụ nơi cõi uế. Nếu khế ngộ được Vô sinh thì Cực Lạc và Ta-bà không khác, chẳng cần nhàm chán cõi ô trược, ngưỡng cầu Tây Phương thanh tịnh. Nhưng nếu thân vẫn còn trong luân hồi, thì cần phải nguyện sinh cõi kia. Bồ-tát tuy trụ ở cõi uế, nhưng Lý và Giải đã thông, qua lại không còn cách trở. Hàng phàm phu chưa thành tựu thắng quán, tuy tạm thời dứt khổ, nhưng rồi vẫn trở lại dòng khổ đau. Do đó, xả bỏ cõi nhiễm, chẳng nuôi lớn Tà sân; còn ưa thích Tây Phương, thì Tà tham không khởi, đồng thời tương ưng với phân biệt huệ . Bên trong gom chứa ba thiện căn , bên ngoài chiêu cảm sự trợ giúp của chư Phật. Sau khi bỏ báo thân ở cõi này, liền được hoa báu cõi Tịnh nghinh đón. Chớ sợ thần, ma, quỷ mà không nỗ lực tu trì chánh nghiệp.

 

2. Hỏi: Nghiệp đạo như cán cân, thiện ác ắt có báo ứng. Từ lúc cảm nhận thân mạng đến nay, chúng sinh tạo ác rất nhiều, tại sao không nhận chịu quả báo mà được sinh thẳng về Tây Phương? Giả sử muốn được vãng sinh lẽ nào không bị chướng ngại?

Đáp: Hễ tạo nghiệp thì nhất định phải nhận quả báo khổ vui. Đã đồng là phàm ngu thì cái nhân tội lỗi chồng chất lâu ngày ấy không thể nói là không có. Ngày nay thọ nhận được báo thân người, nghiệp ác ấy đoạn trừ hết chưa? Nếu cho rằng đã đoạn hết, thì nay đâu còn ác để đoạn trừ. Nếu như chưa diệt sạch, thì tại sao không chướng ngại nhân thọ sinh?
 

Này hành giả Tam Giai! Lúc thọ nhận thân mạng này, các nhân ác chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên ác kia không thể ngăn ngại, đến khi thiện căn đã hết thì sẽ phải thọ lãnh quả khổ. Cần phải nói lại rằng: tuy ác nghiệp chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên không mất việc chiêu cảm thân người, lại nhờ Tịnh nghiệp chuyển mạnh thì làm sao có thể ngăn ngại được việc vãng sinh! Vì sao? Bởi vì Tam quy, Ngũ giới chỉ là nhân thiện hữu lậu, nên vẫn bị điên đảo mộng tưởng dẫn dắt gá vào thai mẹ. Hạnh thấp kém này mà nghiệp ác còn không thể ngăn ngại, cho nên mới được thân người. Huống gì sức của nghiệp ác đã không mạnh, lại còn nhờ chánh hạnh từ quá khứ và sự phát tâm hiện tại, nguyện đoạn tận gốc rễ khổ đau, thì tương lai sẽ làm Phật, niệm niệm tinh tấn nguyện sinh Tây Phương. Khi báo thân này hết, có các Bồ-tát từ bi xót thương đến hộ niệm, khiến trụ vào chánh niệm, được thấy Thánh chúng trước mặt, chỉ khao khát muốn được vãng sinh, nhờ nhân duyên thù thắng này, cho nên vãng sinh được dễ dàng. Do đó, chớ nên hoài nghi mà không tinh tấn tu tập tịnh nghiệp!

 

3. Hỏi: Căn cứ vào việc tu hành ngày nay, mọi người đều lấy việc học hỏi kinh điển làm tông thú, chỉ niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì trở thành kiến chấp, lại chướng ngăn Thánh đạo, không thoát khỏi luân hồi, tại sao không lìa bỏ pháp môn tu riêng này để tu học tất cả các hạnh?
 

Đáp: Tu học khắp các hạnh là lợi ích rất lớn, bậc hiền trí thông đạt mới có khả năng lĩnh hội; kẻ trí cạn sức hèn, khó mà kham nổi. Do đó, Đức Phật tùy theo cơ duyên chỉ dạy chúng sinh tu pháp môn riêng này, vì hợp với căn tánh, không tổn hại đến lý. Nếu nương vào pháp môn riêng biệt này làm nhân để tu tập thì thành tựu hành nghiệp rộng lớn.

 

4. Hỏi: Muốn tu Đạo lớn trước phải biết rõ nhân của khổ, truy xét nguồn gốc khổ đau đều do nghiệp ác mà khởi ra các cảnh ác. Ở cõi Ta-bà này không hiểu được lý tánh, lý tướng của chư Phật, nên tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác. Tất cả chúng sinh có hai đặc điểm: Một là Thật báo. Hai là Ứng hình. Thật báo tức chân thể, Phật tánh; hình tướng tức Phổ thân . Bởi vì chúng sinh mê bản thể, cho nên nơi Như Lai Tạng vọng khởi tâm tham, sân, si. Hình tướng tuy có sai khác, nhưng Phổ thân thì chỉ một. Do chúng sinh cách đời khác thì không còn nhận biết nhau, rồi vọng khởi lên tâm yêu ghét, thường đối với cha mẹ Phật tánh, mà tạo các hạnh sát, đạo, dâm v.v… Các bậc Thánh Tam thừa thương xót chúng sinh, ứng hiện thân đồng phàm phu, nhưng chúng sinh mê mờ không nhận biết, liền khinh thường, bức bách, làm tăng trưởng duyên ác. Do trước kia không biết rõ, bèn sinh mộng tưởng đảo điên. Ngày nay được khai ngộ, đối cảnh liền nhớ nghĩ đến lỗi lầm, cho nên diệt trừ tội ác đã làm, không cho phát sinh lỗi lầm mai sau. Nhưng ở cõi này sám hối, mọi tội lỗi có thể tiêu trừ, còn nhàm lìa cõi Ta-bà, thích sinh về Tịnh độ, lẽ nào không còn oán kết ư?
 
Đáp: Muốn đạt được Đạo lớn cần cắt đứt nguồn gốc khổ đau, dứt trừ nguồn gốc khổ đau không gì hơn đoạn sạch hết các lỗi ác. Nơi tạo ra oan khiên chính ở cõi Ta-bà. Chất chứa những oán hiềm, trở thành ái kết , ngày nay xét kỹ, đều do điên đảo mộng tưởng trói buộc. Vì muốn cho chúng sinh hiểu rõ chân thể là Phật tánh, hình tướng là Phổ thân, cho nên chư Phật từ bi mở bày phương tiện, ứng khắp trong sáu đường, hiện thân đồng phàm phu. Kiến giải như thế, mọi người đều biết, nhưng luận về khởi hạnh tu tập thì hoàn toàn không. Vì thế hiểu biết thì dễ, nhưng thực hành lại khó.
 

Chỉ nên nghĩ tưởng pháp môn này chân thật không hư dối, khởi tâm sám hối những tội ác đã làm, và nguyện không phạm những lỗi ở mai sau, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, và tu tất cả pháp môn, hồi hướng vãng sinh Tịnh độ, khẩn cấp như cứu lửa cháy đầu. Cõi này là chốn trầm luân, thở than muôn kiếp lạc đường, hãy an tâm nơi cõi Cực Lạc, chứng quả Vô sinh, thành tựu được hạnh tự lợi rồi, nên trở lại cõi Ta-bà, mở lòng đại bi giáo hóa chúng sinh, bình đẳng cứu giúp mọi loài, không dừng lại giữa đường, không rẽ sang lối khác. Chỉ vận tâm khởi niệm: trước vì đáp trả oán thù xưa, nguyện xả bỏ nhân khổ đau, cùng nhau sinh về Cực Lạc, khi họ đều đã lĩnh hội, liền xả bỏ được oán hiềm. Không nên do đây mà mãi ôm giữ mối nghi!

 

5. Hỏi: Ngày nay cách Phật quá xa, hàng phàm ngu thấp kém, cần phải lễ sám bồ-tát Địa Tạng, một vị Bồ-tát có duyên với chúng sinh ở cõi này, lẽ ra phải chuyên niệm danh hiệu Ngài và niệm Tam Bảo. Niệm danh hiệu Phật A-di-đà ở Tịnh độ là pháp môn tu hành của hàng thượng căn, và hàng căn cơ Đệ nhị giai  mới có khả năng phát khởi niệm. Chúng sinh nay đã ở vào thời ác trược, tánh dục thấp hèn, làm sao thực hành được pháp môn tu tập của các bậc thượng căn? Bậc thượng căn tu học pháp của hàng hạ căn thì không hợp và chậm tiến đạo; còn hàng hạ căn tu tập pháp của bậc thượng căn thì chướng đạo, chịu khổ mà thôi. Pháp môn tu tập và căn cơ đã không khế hợp nhau thì có thể thành tựu được ư?
 
Đáp: Những điều ông nêu ra thật cũng hợp với kinh giáo, bởi nếu tu tập chưa lâu thì sẽ phát khởi mối nghi này. Nhưng muốn dứt nghi, thì cần phải mở ra pháp tu thiết cận. Ở đây xin lược nêu hai nghĩa: thứ nhất là dẫn Thánh giáo; thứ hai là phân tích nghĩa môn.
 
+ Dẫn Thánh giáo:
 
Nói về Thánh giáo thì rất nhiều bộ loại, nếu chép ra nhiều, thật khó nghiên cứu, ở đây chỉ trích dẫn sơ lược năm đoạn kinh quan trọng để nêu lên những điều hi hữu, ít thấy, nghe:
 
1. Kinh Đại Tập Hiền Hộ ghi: “Phật bảo Hiền Hộ: “Sau khi Như Lai Niết-bàn, các đệ tử hãy lưu truyền môn Tam-muội này. Các tỳ-kheo xấu ác, không thể tin thọ, cho là lời của ngoại đạo, lời của ma”. Phật lại bảo Hiền Hộ: “Khi tỳ-kheo làm việc xấu ác, khi các nước đánh nhau, hủy báng lẫn nhau, khi chúng sinh ở trong ác trược thì bốn chúng đệ tử  có khả năng lưu truyền pháp này để làm lợi ích chúng sinh”.
 
2. Kinh Dược Sư ghi: “Bồ-tát Văn-thù vì chúng sinh thời Tượng pháp  mà thỉnh: bốn chúng đệ tử cầu vãng sinh Tây Phương, nhưng tâm không quyết định thì niệm danh hiệu Dược Sư, liền đoạn trừ được lưới nghi, đến khi sắp chết có tám vị Bồ-tát dẫn dắt vãng sinh”.
 
3. Kinh A-di-đà ghi: “Chư Phật ở các phương khác đều khen ngợi Đức Phật Thích-ca ở trong cõi Ngũ trược  lại nói được pháp khó tin nhận, chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài nói lời chân thật để xác chứng”.
 
4. Quán Kinh ghi: “Hoàng hậu Vi-đề-hi vì những chúng sinh bị năm ác trược bất thiện, năm nỗi thống khổ bức bách, thỉnh Phật giảng pháp môn Niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Lại nữa, trong ba phẩm thuộc bậc hạ, toàn là những hạng người tạo nghiệp ác, cũng đều được vãng sinh”.
 

5. Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật Thích-ca vì chúng sinh trong cõi Ngũ trược mà thuyết pháp, giúp chúng sinh xa lìa năm việc xấu ác, trừ năm nỗi thống khổ, diệt năm ngọn lửa đốt thân . Lại, vào đời sau, khi các kinh Phật bị hủy diệt hết, Như Lai vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu truyền một bộ kinh này, lưu trụ lại trăm năm. Bấy giờ, chúng sinh khởi lên một niệm tín thọ liền được vãng sinh về Cực Lạc”.

 

Hỏi: Các đoạn kinh được trích dẫn chính thật do Phật nói, hoàn toàn không hư dối, nhưng chưa biết đó là pháp môn phương tiện hay là giáo lý rốt ráo?
 
Đáp: Lời ông hỏi rất đúng. Các kinh giáo được viện dẫn đều là pháp môn rốt ráo. Vì sao? Vì nếu là giáo Bất liễu nghĩa thì Phật đã giải thích rõ nơi hội Niết-bàn. Nhưng pháp môn Tịnh độ này đã chẳng còn gì nghi để hỏi nơi Song thọ. Hơn nữa, chư Phật trong mười phương đều đã xác chứng. Căn cứ vào hai nghĩa này, cho nên đây chẳng phải là pháp phương tiện. Trên là trích dẫn sơ lược Thánh giáo để trình bày nhân của giáo thuyết.
 
+ Trình bày nghĩa môn:
 
Giải thích sơ lược nghĩa môn, để trừ bỏ mối nghi. Nhất âm  diễn xướng thì mỗi mỗi căn cơ liễu ngộ khác nhau. Tuy có muôn ngàn sai khác, nhưng đều được khế ngộ. Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện rộng lớn vào cõi ác cứu độ chúng sinh. Đức Phật A-di-đà dùng lòng đại bi chỉ trong mười niệm tiếp dẫn hàm linh. Nếu không cầu vãng sinh Tịnh độ e rằng sẽ rơi vào ba đường ác. Niệm danh hiệu bồ-tát Địa Tạng là mong cầu cứu khổ. Nay khuyên chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, phát nguyện vãng sinh Tây Phương, khi mạng sống sắp hết, chư Phật liền đến tiếp dẫn; đã được vãng sinh Tịnh độ, bặt dứt ba đường, không còn nếm chịu các khổ não, không nhọc công cầu xin cứu vớt. Tông chỉ của Tam giai giáo là tùy theo thời cơ mà nói, sau 1.500 năm không có người tu Tịnh nghiệp, giả sử có người tu tập, các hạnh đều thành tựu, đó là hạng Đệ nhị giai chứ chẳng phải là hàng phàm phu thấp kém. Nay xét ý này, thì hành nhân vừa nói chỉ gồm phẩm Thượng và Trung trong ba phẩm. Còn pháp môn Tịnh độ, định tán  đều chung, tác nghiệp  cạn hay sâu đều được vãng sinh Cực Lạc. Từ hàng xuất gia thanh tịnh hay kẻ tại gia tôn quý ở nơi vắng lặng, tâm trí không loạn, tu tập quán nghiệp, nhất định vãng sinh. Những người chẳng màn vinh hoa, chẳng để tâm đến các việc công tư, chẳng tham việc thế tục, siêng năng học hỏi, tu tập đạo nghiệp, đầy đủ Tán nhân  ba phước , nhất định vãng sinh Cực Lạc. Người thiếu thốn của cải, công việc trói buộc, nhưng quyết một lòng tu hành, cũng được vãng sinh. Người đời nay gây tội, cho đến kẻ Nhất-xiển-đề khi mạng sống sắp hết, bị các thứ khổ bức bách, bỗng nhiên gặp được thiện hữu tri thức, hướng dẫn niệm danh hiệu Phật, tướng ác được tiêu trừ, liền vãng sinh Cực Lạc. Bậc thiện căn Đại thừa, từ người suốt đời không tạo lỗi, cho đến bậc Hồi hướng chung tâm , căn cứ vào tác nghiệp cạn hay sâu mà phân làm ba phẩm bậc Thượng. Người căn cơ Tiểu thừa, từ Thiện thú  cho đến Thế đệ nhất pháp , chia làm ba phẩm bậc Trung. Hạng thuộc căn cơ Đại thừa hay Tiểu thừa, căn cứ theo lỗi nặng nhẹ, phân làm ba phẩm bậc Hạ. Đây là do tu đạo cạn hay sâu, tạo ác nặng hay nhẹ, nhưng đều phát tâm Bồ-đề, nguyện vãng sinh Tịnh độ, tùy theo nghiệp nhiều ít mà đều được vãng sinh. Không thể chấp lệch một bề, hủy báng nghi ngờ Tịnh nghiệp.
 

Lại nói, thời ác trược ngày nay không thích hợp cho người niệm Phật nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ. Lời này thật thiển cận! Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bản) ghi: “Khi kinh Phật diệt hết, Đức Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu lại kinh này một trăm năm. Lúc bấy giờ, chúng sinh nghe danh hiệu Phật mà phát khởi niềm tin, đều được vãng sinh Cực Lạc”. Ý muốn nói Như Lai thuyết giáo để làm lợi ích chúng sinh có thời hạn. Sau 10.000 năm mạt pháp, các kinh khác hoàn toàn diệt hết, chỉ có kinh A-di-đà làm lợi ích vô số chúng sinh, cho nên Đức Phật chỉ lưu lại kinh này trăm năm. Bấy giờ đã trải qua 10.000 năm thời mạt pháp, tất cả các kinh đều diệt hết, Đức Phật Thích-ca có ân đức lớn thương xót chúng sinh lưu lại giáo pháp 100 năm. Lúc ấy, người tu liền được vãng sinh Tịnh độ, tại sao còn nghi ngờ mà không phát nguyện vãng sinh? Xét rõ văn kinh này, đủ để trừ bỏ mối lo, chớ ôm giữ kiến chấp trong lòng mà không dung thông được các kinh.

 

*
 
 
Sách cùng thể loại
Niệm Phật Luận
Niệm Phật Luận
Đại Sư Thái Hư
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục
Như Hòa
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà
Thích Pháp Đăng
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung
Thích Tâm Hoà
Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Thích Minh Thành
Tịnh Độ Hoặc Vấn
Tịnh Độ Hoặc Vấn
HT. Thích Thiền Tâm