
Tây Phương An Lạc Tập
ĐẠI MÔN THỨ NĂM
Chia làm bốn phần để giảng.
- Thuyết minh sự dài ngắn của thời gian tu để nhanh hoạch được quả vị bất thoái.
- Phân biệt sự khác nhau của cõi Ta-bà này và Tịnh độ trong thiền quán, khuyên mọi người vãng sanh.
- Cảnh giới khác nhau của cõi uế này và cõi Tịnh độ, cũng gọi là sự so sánh hữu lậu và vô lậu.
- Dẫn dụng kinh điển chứng minh, khuyên người đời sau khởi tín tâm cầu vãng sanh.
I. Thuyết minh sự dài ngắn của thời gian tu.
Có hai phần:
1. Thuyết minh sự dài ngắn của thời gian tu.
Hết thảy chúng sanh không ai là không chán khổ thích sướng. Ai cũng sợ trói buộc, mong cầu giải thoát, ai cũng muốn sớm chứng đắc vô thượng Bồ-đề. Vì vậy, trước tiên cần phải phát khởi Bồ-đề tâm, mà tâm Bồ-đề này rất khó biết, rất khó phát khởi. Cho dù đã phát tâm Bồ-đề, trong kinh nói, phải trải qua tu mười công đức tín tâm, tinh tấn, ức niệm, giới luật, thiền định, trí tuệ, xả tâm, hộ pháp, phát nguyện, hồi hướng mới tiến bộ trên con đường Bồ-đề. Lại nữa cái thân thể tu tập này, còn phải trải qua thời gian lâu xa một vạn kiếp tương tục không ngừng mới chứng được quả vị bất thối.
Nhưng phàm phu hiện tại, trước mắt chỉ được gọi niềm tin nhẹ như lông hồng, cũng gọi là tên gọi giả có, cũng gọi là bất định tụ, cũng gọi là ngoại phàm phu, chưa thể ra khỏi ngôi nhà lửa tam giới. Vì sao biết? Bởi vì căn cứ trong kinh Bồ-tát Anh Lạc nói, thì hoàn toàn phải đầy đủ những quả vị vào đạo chính là như vậy, cho nên gọi là đường khó đi.
Lại nữa trong một kiếp, thân trải qua sống chết đếm không xuể, huống hồ gì trong một vạn kiếp, luôn chịu đau khổ lửa đốt. Nếu tin được những lời Phật nói trong kinh, phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, bất luận đời này thọ hay yểu, chỉ cần vãng sanh, thì liền được lên ngôi bất thoái, ngang với công đức tu một vạn kiếp. Này chư Phật tử, sao không thử nghĩ xem, bỏ con đường khó đi, mà chuyển qua tu con đường dễ đi?
Trong luận Câu Xá, cũng có đề cập đến đường dễ đi và đường khó đi. Trong luận nói, con đường khó đi là mỗi kiếp trong ba đại a-tăng-kỳ kiếp đều phải đầy đủ tư lương phước đức, trí tuệ, còn phải tu lục độ vạn hạnh. Và trong mỗi pháp tu, còn phải trải qua hàng vạn con đường khó đi, mới chứng được một quả vị, đây gọi là đường khó đi.
Luận ấy lại nói, đường dễ đi là có pháp môn phương tiện đặc biệt, mà đạt đến mục đích giải thoát, đây gọi là đường dễ đi.
Bây giờ khuyên mọi người quy hướng thế giới Cực Lạc, đem hết công đức tu tập hồi hướng vãng sanh Tịnh độ. Chỉ cần hết lòng niệm Phật, thì khi mạng chung nhất định vãng sanh. Chỉ cần được sanh lên nước ấy, thì liền được khoái lạc, đó không phải là con đường dễ đi sao? Mọi người phải biết lý này!
2. Trả lời câu hỏi:
Anh nói chỉ cần phát nguyện vãng sanh Tịnh độ, thì sau khi mạng chung, liền được vãng sanh, có kinh nào chứng minh không?
Trả lời: Có. Có tới mấy kinh luận minh chứng điều này.
a. Trong kinh Vô Lượng Thọ nói, Phật bảo A-nan: “Nếu có chúng sanh muốn trong đời này thấy Phật Vô Lượng Thọ, thì nên phát tâm Bồ-đề vô thượng, tu các công đức, phát nguyện sanh về nước Vô Lượng Thọ, thì liền được vãng sanh.”
Cho nên kinh Vô Lượng Thọ khen ngợi: “Nếu nghe danh hiệu của Phật A-di-đà, liền phát khởi tâm hoan hỷ tán thán ngưỡng mộ quy y, thậm chí chỉ cần khởi một niệm tâm này, liền thu được lợi ích rất lớn, liền đầy đủ bảo tạng công đức. Chỉ cần nghe danh hiệu của Phật A-di-đà, liền được không còn thoái chuyển, cho nên phải dùng tâm chí thành đảnh lễ Phật A-di-đà.”
b. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói, trong cửu phẩm, chỉ cần khi lâm chung tâm chánh niệm, thì liền được vãng sanh.
c. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận nói, phải dạy các chúng sanh, khuyên mọi người quán chiếu tánh chân như là bình đẳng, đồng nhất, chân thật. Có những Bồ-tát mới bắt đầu phát tâm Bồ-đề, tâm họ còn rất yếu, cho rằng nếu chính mình không thường gặp được chư Phật, được chư Phật dạy dỗ, được cúng dường chư Phật, tì có thể sẽ thối tâm. Như Lai có pháp môn phương tiện thù thắng, để thâu nhiếp thủ hộ tín tâm của họ, chính là phải chuyên tâm niệm Phật, liền được theo sở nguyện mà vãng sanh Tịnh độ. Nhờ thường được thấy Phật, nên vĩnh viễn xa rời ác đạo.
d. Trong kinh Cổ Âm Đà-la-ni, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Ở Thế giới Cực Lạc phương ây, hiện tại có Phật hiệu A-di-đà. Nếu bốn chúng đệ tử với tâm chánh tín thọ trì danh hiệu Phật A-di-đà, với tâm kiên cố nhớ Phật A-di-đà, trong mười ngày đêm, liền hết loạn tâm, rất tinh tiến siêng năng tu tập Niệm Phật Tam-muội. Nếu niệm niệm không ngừng, trong mười ngày đêm, chắc chắn sẽ thấy Phật A-di-đà, cũng được vãng sanh về nước Cực Lạc.
e. Trong kinh Pháp Cổ nói: “Nếu có người khi lâm chung, không niệm Phật được, nhưng biết phương tây có Phật, trong lòng khởi niệm cầu vãng sanh Tịnh độ, cũng được vãng sanh.”
g. Trong kinh Thập Phương Tuỳ Nguyện Vãng Sanh nói: “Nếu có người bên lề cái chết, hoặc sau khi chết đoạ địa ngục, nếu bà con quyến thuộc niệm Phật, tụng kinh, trai tăng hồi hướng phước đức cho người chết, người chết liền ra khỏi địa ngục, mà được sanh về Tịnh độ.” Huống hồ bây giờ chính mình niệm Phật, tại sao không được vãng sanh?”
Cho nên kinh ấy lại nói: “Người sống làm phước cho người chết, như cúng cho ông bà tổ tiên, nhất định người chết hưởng được.”
h. Dẫn dụng các kinh chứng minh, trong kinh Đại Pháp Cổ nói: “Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân, hết lòng xưng danh hiệu chư Phật, thì chư Phật và thánh chúng trong mười phương luôn hiện tiền trước mặt. Vì thế bộ kinh này, có tên là Đại Pháp Cổ. Nên biết, người này có thể theo tâm nguyện của mình mà vãng sanh lên các cõi Tịnh độ trong mười phương.”
Kinh Đại Bi nói: “Sao gọi là đại bi? Nếu một lòng niệm Phật, tâm chuyên nhất tương tục, thì sau khi mạng chung, nhất định sanh về nước An Lạc. Còn nếu khuyên người khác niệm Phật, thì những người này đều được gọi là tu hành đại bi tâm.”
Cho nên trong kinh Niết-bàn, Phật nói với đại vương: “Giả sử đại vương mở kho lớn, trong một tháng bố thí hết đồ trong kho, thì công đức có được không bằng công đức của một người niệm một danh hiệu Phật. Công đức của người niệm Phật, hơn những người bố thí trên nhiều không thể tính đếm.”
Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, Phật hỏi A-nan: “Nếu có một người cúng dường cho tất cả những người của cõi Diêm-phù này cơm ăn, áo mặc, giường nằm, thuốc thang thì công đức mà người ấy thu được có nhiều không?”
A-nan trả lời: “Thưa đức Thế tôn, rất nhiều.”
Phật bảo A-nan: “Nếu một người xưng danh hiệu Phật với tâm chuyên nhất, thời gian chỉ cần ngắn như búng tay, thì công đức của người ấy vượt hơn người kia không thể tính đếm.”
Trong kinh Đại Phẩm nói: “Nếu có người niệm Phật với tâm tán loạn, cho đến mạng chung, thì phước báo cũng rất lớn. Nếu có người rải hoa đồng thời niệm danh hiệu Phật, cho đến mạng chung, thì phước báo cũng nhiều vô số.” Cho nên biết lợi ích niệm Phật rất lớn, là không thể nghĩ bàn.
Ngoài ra, kinh Thập Vãng Sanh và các kinh đại thừa đều có nói lợi ích của việc niệm Phật, nhưng nhiều quá không thể mỗi mỗi đều dẫn ra.
II. So sánh sự khác nhau của tu thiền và tu quán ở thế giới này và thế giới Cực Lạc, và khuyên mọi người vãng sanh Tịnh độ.
Thế giới này dơ uế, tâm người tán loạn, khó đi vào định để quán chiếu. Cho dù có quán chiếu được, thì cũng chỉ là thu được định cảnh trên sự tướng mà thôi, vả lại người ta phần nhiều vẫn còn trầm mê trong cảnh định này. Ngoài ra cũng chỉ có thể tích phước, sanh lên cõi trời, đến khi hết phước, lại đoạ xuống hạ giới.
Vì vậy Đại Trí Độ Luận nói: “Bác học đa văn lại trì giới tu thiền định, khi chưa được pháp vô lậu, tuy có chút ít công đức, vẫn không dám chắc là không mắc sai lầm. Còn nếu tu tập ở Tây phương Cực Lạc, ở đó sự tướng và hoàn cảnh quang minh và sạch sẽ, trong thiền định quán chiếu dễ thành tựu, nhờ đó có thể trừ được tội nghiệp vô lượng kiếp. Vì luôn ở trong định, cho nên tiến bộ nhanh chóng, rốt ráo thanh tịnh.” Như kinh Vô Lượng Thọ nói.
Hỏi: Nếu cảnh giới của Tây phương Tịnh độ thù thắng, dễ dàng thiền định, vậy thì trời sắc giới của thế giới Ta-bà này, đáng lẽ không tu thiền được.
Trả lời: Tu thiền thì Ta-bà và Tịnh độ như nhau, nhưng vì thế giới Cực Lạc hễ sanh lên là được bất thoái, lại được sự gia trì của Phật lực, cho nên nói là thù thắng hơn. Ở cõi Ta-bà tu thiền định, chỉ có dựa vào sức mình, mà không có Phật lực gia trì, thì khi bỏ thân này, đời sau không tránh khỏi sẽ thoái đoạ, cho nên nói không bằng Tây phương Tịnh độ.
III. Uế độ Ta-bà và Tây phương Tịnh độ cũng gọi là hữu lậu và vô lậu.
Nói đến cảnh giới chúng ta đang ở trước mắt, đầy những tình cảnh xấu ác đồi núi lởm chởm, cây cối gai góc, thú dữ rắn độc, bão táp sấm chớp, giặc giã trộm cướp, tai nạn nước lửa, con cái bất hiếu, ôn dịch đói khát...
Nói đến chánh báo sắc thân của chúng ta, có ba độc tham sân si, có tám đảo thường, lạc, ngã, tịnh, phi thường, phi lạc, phi ngã, phi tịnh, có ưu bi, khổ não, có những khổ đau bệnh tật, chết sớm, đói khát, nóng lạnh... nhiều nói không thể hết, nên gọi là hữu lậu, quả thật đáng chán lìa.
Chỗ thù thắng của vãng sanh nước An lạc, căn cứ kinh Vô Lượng Thọ nói, nhân loại và chư thiên mười phương thế giới, chỉ cần sanh lên nước ấy, đều thu được đủ các lợi ích. Những lợi ích nào? Những người sanh lên nước ấy, khi đi có hoa sen sắc vàng đỡ gót, khi ngồi có toà bảy báu nâng thân, ra cửa có chúa trời Đao lợi mở cửa, vào nhà thì có Phạm Thiên Vương theo sau.
Hết thảy thánh nhân đều là bạn thân của ta, Phật A-di-đà là thầy ta. Dưới rừng cây báu, có thể tuỳ ý bay lượn; trong hồ nước tám công đức, có thể du ngoạn rửa chân, thọ mạng dài bằng Phật. Trong tu học, tất cả pháp môn có thể đồng thời thực hành; khi ngừng tu, thì hai đến Chân Tục dung thông.
Khi ra cứu độ chúng sanh khắp mười phương, thì dùng sức đại thần thông. Tạm thời an trụ thì ngồi trong ba cửa giải thoát không, vô tướng, vô tác. Du hành thì đi vào đường Bát chánh đạo. Đích đến là đạt đến cảnh giới Đại Niết-bàn. Hết thảy chỉ cần sanh lên nước ấy, thì tất cả đều được lợi ích ấy. Do đó, tại sao không muốn đến mau?
IV. Dẫn chứng những người tu hành thành tựu trong kinh Phật, để khuyên người đời sau phát nguyện cầu vãng sanh.
Kinh Quán Phật Tam-muội nói, trong pháp hội, chư Phật mười phương đều tự tại kiết-già trên đài liên hoa, xuất hiện trong không trung.
Thiện Đức Như Lai đại biểu chư Phật phương đông, nói với đại chúng: “Quý vị nên biết, vào thời vô lượng kiếp lâu xa, có đức Phật ra đời tên là Bảo Oai Đức Thượng Vương, ngài cũng như Phật hiện tại nói pháp ba thừa. Sau khi Phật ấy diệt độ, trong thời mạt pháp, có một vị Tỳ-kheo, dẫn chín người đệ tử, đến tháp lễ lạy tượng Phật.”
“Họ thấy tượng Phật được tôn tạo quá đẹp, nên sau khi lễ bái xong, họ còn đứng ngắm mãi, rồi họ cùng nói lên một bài kệ, tán thán công đức tướng hảo của Phật rồi mệnh chung.”
“Sau khi họ mệnh chung, đều sanh vào nước có Phật. Từ đó về sau, họ gặp vô lượng chư Phật, và rộng tu vô lượng phạm hạnh thanh tịnh, cuối cùng hoạch đắc Niệm Phật Tam-muội. Sau khi được Niệm Phật Tam-muội, chư Phật xuất hiện trước mặt thọ ký cho họ, rồi họ tuỳ ý làm Phật trong thế giới mười phương.”
“Phật Thiện Đức ở phương đông chính là ta, còn Phật ở chín phương khác, chính là chín người đệ tử của ta. Chư Phật mười phương này, nhờ đến tháp lễ Phật, đồng thời dùng kệ tán thán Phật mà cuối cùng được thành Phật, họ là ai khác? Chính là Phật mười phương của chúng ta.”
Chư Phật mười phương lúc bấy giờ, đến từ không trung, phóng ra ngàn loại ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra sắc thân của các ngài, trong bạch hào phóng ra vô lượng ánh sáng, chư Phật mười phương này đều ngồi trên toà của đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni.
Chư Phật mười phương nói với A-nan: “Ông có biết Phật Thích-ca Văn, đã trải qua vô lượng kiếp tinh tấn, tu muôn ngàn khổ hạnh để cầu trí tuệ Phật, cuối cùng mới được thành Phật không? Hiện tại chúng tôi nói cho ông, chính là điều này đây. Ông phải lấy lời của chư Phật mười phương, nói lại cho trời rồng, bốn chúng đệ tử đời sau, phải quán tưởng ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật và Niệm Phật Tam-muội.”
Sau khi chư Phật mười phương nói xong lời này, liền thăm hỏi Phật Thích-ca Văn. Sau khi thăm hỏi xong, liền trở về Phật quốc của mình.