Sách Khác
Đại Môn Thứ Mười Hai

ĐẠI MÔN THỨ MƯỜI HAI

Dẫn chứng kinh Thập Vãng Sanh mà khuyên mọi người vãng sanh. Trong kinh Phật nói phương pháp vãng sanh nước Phật A-di-đà, nói pháp môn quán thân cho mọi người, để đạt được chánh niệm mà được giải thoát.

Trong kinh Thập Vãng Sanh, A-nan nói với Phật: “Bạch Thế tôn, tất cả chúng sanh muốn tu pháp môn quán thân, phải tu thế nào? Xin Phật nói cho chúng con.”

Phật nói với A-nan: “Phương pháp quán thân, là không quán phương đông phương tây, không quán phương nam phương bắc, không quán tứ duy thiên hạ, cũng không quán hư không, không quán cảnh giới bên ngoài, không quán thân thể, không quán âm thanh, không quán dung mạo, mà chỉ quán vật không có nhân duyên này, đó chính là pháp quán thân chân chánh. Ngoài cách quán thân này, cho dù đi khắp mười phương tìm kiếm, cũng không tìm được phương pháp nào khác có thể đưa tới giải thoát.”

Phật lại nói với A-nan: “Bản thân chỉ cần quán thân như vậy, liền được thiện lực, được chánh niệm, được giải thoát. Vì sao? Như có một người, tinh tiến bằng tâm chánh trực, liền được chánh giải thoát. Người ấy không cần đi tìm giải thoát mà giải thoát tự đến.”

A-nan nói với Phật: “Bạch Thế tôn, chúng sanh nếu có chánh niệm như vậy mà được giải thoát thì đáng lẽ không có ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.”

Phật nói: “Chúng sanh không có cách nào giải thoát được. Vì sao? Bởi vì tất cả thật ít, dối nhiều, không có một chút chánh niệm, cho nên kẻ ở địa ngục nhiều, kẻ được giải thoát ít. Thí như có người, bên ngoài thì tỏ ra hiếu thuận với cha mẹ, sư trưởng nhưng trong lòng thì bất hiếu. Bên ngoài tỏ ra tinh tấn, nhưng bên trong kỳ thật không như vậy. Hạng người xấu này, quả báo tuy chưa tới nhưng đã ở gần ba đường ác. Nếu không có chánh niệm, thì không được giải thoát.”

A-nan lại hỏi Phật: “Nếu như vậy, phải tu thiện căn gì mới được chánh giải thoát?”

Phật nói với A-nan: “Ông nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho ông, tu mười loại vãng sanh, có thể được giải thoát. Mười loại nào?”

1. Dùng chánh niệm để quán sắc thân này, luôn cúng dường ẩm thực và y phục cho Phật và tăng chúng bằng tâm đầy hoan hỷ, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

2. Dùng chánh niệm cúng dường thuốc thang cho Tỳ-kheo bệnh và tất cả chúng sanh, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

3. Dùng chánh niệm không sát hại bất cứ sanh mạng nào, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

4. Dùng chánh niệm thọ giới pháp nơi thầy, lấy trí tuệ thanh tịnh để tu phạm hạnh thanh tịnh, mà trong lòng luôn đầy hoan hỷ, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

5. Dùng chánh niệm để hiếu thuận cha mẹ, kính phụng sư trưởng, mà không khởi tâm ngạo mạn, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

6. Dùng chánh niệm đi tham hỏi chỗ ở của sư tăng, cung kính chùa tháp, nghe pháp để hiểu rõ lý đệ nhất nghĩa, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

7. Dùng chánh niệm trong một ngày một đêm, thọ trì bát quan trai giới, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

8. Nếu trong tháng trai và ngày trai, dùng chánh niệm lìa bỏ hoàn cảnh gia đình, đi tham yết thiện tri thức, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

9. Luôn dùng chánh niệm để trì giới luật thanh tịnh, siêng năng tu thiền định, hộ trì Phật pháp, nếu được như vậy, liền được vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.

10. Dùng chánh niệm không khởi tâm phỉ báng đạo vô thượng, trì giới luật thanh tịnh một cách tinh tiến, đồng thời dạy dỗ những người không có trí tuệ. Lại lưu bố bộ kinh này, để giáo hoá vô lượng chúng sanh. Những người trên đây đều có thể vãng sanh Tây phương Tịnh độ.

Lúc bấy giờ trong pháp hội có một vị Bồ-tát, tên Sơn Hải Huệ, hỏi Phật: “Bạch Thế tôn, nước Phật A-di-đà, có những sự vui vi diệu thù thắng gì, mà khiến cho hết thảy chúng sanh đều phát nguyện vãng sanh?”

Phật nói với Bồ-tát Sơn Hải Huệ: “Bây giờ ông nên đứng dậy chắp tay hướng về phía tây, dùng chánh niệm để quán quốc độ của Phật A-di-đà, phát nguyện muốn gặp Phật A-di-đà.”

Lúc bấy giờ tất cả mọi người, đều đứng dậy chắp tay, hướng về phía Phật A-di-đà. Lúc ấy Phật A-di-đà liền hiển đại thần lực, phóng ánh sáng lớn chiếu trên thân Bồ-tát Sơn Hải Huệ.

Thế là Bồ-tát và đại chúng đều thấy được tất cả cảnh giới đẹp đẽ trang nghiêm của quốc độ Phật A-di-đà, đều được làm bằng thất bảo. Nước chảy, chim kêu đều phát ra pháp âm. Dân chúng ở nước Cực Lạc ngoài tu tập, không làm gì cả. Ngôn ngữ họ nói, âm thanh họ nghe và những điều tâm họ nghĩ đều là nghĩa lý đại thừa.

Lúc ấy Bồ-tát Sơn Hải Huệ hỏi Phật: “Bạch Thế tôn, chúng con hiện tại đều thấy được lợi ích thù thắng không thể nghĩ bàn của nước Cực Lạc. Con mong tất cả chúng sanh đều phát nguyện vãng sanh, và chính con cũng phát nguyện vãng sanh nước ấy.”

Đức Phật bèn dự ký rằng: “Những chúng sanh dùng chánh quán và chánh niệm mà được chánh giải thoát, thì đều được sanh lên nước ấy. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân, chánh tín bộ kinh này, ái lạc bộ kinh này, đồng thời khuyên dạy chúng sanh làm theo. Như vậy người nói người nghe đều được vãng sanh về nước an lạc. Nếu có hạng người như vậy, tôi bắt đầu từ hôm nay, thường sai 25 vị Bồ-tát hộ trì người ấy, làm cho người ấy không bệnh không não. Nếu có nhân phi nhân muốn hại người ấy, chắc chắn không được như ý. Người ấy đi đứng nằm ngồi, bất luận là ngày hay đêm, đều được bình an.”

Bồ-tát Sơn Hải Huệ nói với Phật: “Bạch Thế tôn, nay con hết lòng kính lễ, không dám hào tơ nghi ngờ. Nhưng ở đời nếu có chúng sanh, phỉ báng bộ kinh này, thì người ấy sau này sẽ như thế nào?”

Phật nói với Bồ-tát Sơn Hải Huệ: “Sau này trong cõi Diêm-phù-đề, có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni nào thấy người đọc tụng kinh này mà khởi tâm sân hận, phỉ báng. Do huỷ báng chánh pháp, người ấy ngay trong đời mắc các bệnh nặng, sáu căn khiếm thiếu, mắt mù, tai điếc, miệng câm, phù thủng, ngồi nằm không được an ổn, cầu sống không được cầu chết không xong.”

“Sau khi chết bị đoạ vào trong địa ngục, trong tám vạn kiếp chịu các khổ não. Rồi trăm ngàn vạn kiếp làm ngạ quỷ, ngay cả tên gọi nước và thức ăn cũng còn không được nghe đến. Rất lâu sau mới ra khỏi ngạ quỷ, làm heo dê trâu chó, bị người giết thịt, chịu khổ não lớn. Sau được đầu thai làm người, nhưng luôn sanh ra trong nhà hạ tiện, trăm ngàn vạn kiếp không được tự tại, không được nghe đến hai chữ Tam bảo. Cho nên đối với những người không có trí tuệ không tin pháp đại thừa, không nên nói bộ kinh này.”

Công đức biên soạn lưu bố sách này, xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh, mọi người trước nên phát tâm Bồ-đề, kế đó phát nguyện vãng sanh Tịnh độ, cuối cùng đều được thành tựu Phật đạo.

Sách cùng thể loại
Kinh Nhật Tụng
Kinh Nhật Tụng
Chùa Hoằng Pháp
Kinh Trường Thọ Diệt Tội
Kinh Trường Thọ Diệt Tội
Người Dịch:
Thánh Đức Và Sự Linh Ứng của Bồ - Tát Địa Tạng
Thánh Đức Và Sự Linh Ứng của Bồ - Tát Địa Tạng
Nhiều tác giả
Những Câu Chuyện Về Nhân Quả
Những Câu Chuyện Về Nhân Quả
Thích Tâm Thuận
Niệm Phật Thoát Sanh Tử
Niệm Phật Thoát Sanh Tử
Thích Nữ Tuệ Uyển
Tích Truyện Đức Từ Thị Quán Thế Âm
Tích Truyện Đức Từ Thị Quán Thế Âm
Thích Tâm Hoà