Sách Chùa Hoằng Pháp Biên Soạn
TRỞ VỀ SAU NHỮNG NỖI ĐAU

Tôi sinh ra ở miền quê Thanh Hóa, nơi thơm hương lúa và giọt mồ hôi của người nông dân. Nhà tôi có sáu anh chị em, tôi là đứa con thứ tư trong gia đình. Nhà tôi ở quê vốn đã khó khăn lại đông con nên cái nghèo càng bám riết chứ không thể khá giả hơn. Lúc tôi mới học hết cấp hai, chú thím trong Sài Gòn xin tôi về nuôi. Bố mẹ thương con nhưng cũng thương chú thím, nên năm 1984 bố một mình dẫn tôi vào ở nhà chú thím. Hai năm ở bên nhà chú thím, tôi cảm thấy hoàn cảnh của chú thím cũng còn nhiều khó khăn. Lúc ấy còn nhỏ, ngập ngừng mãi, tôi cũng xin được chú thím cho đi làm để kiếm tiền phụ giúp gia đình và nuôi sống bản thân. Chú thím đồng ý cho tôi đi làm.

Nơi đầu tiên tôi đi làm là cơ sở sản xuất kem cây và kem ký. Hàng ngày, đến nơi sản xuất kem tôi đều đem theo hy vọng có thể kiếm tiền về phụ giúp gia đình. Rồi thời gian chờ đợi tháng lương đầu tiên cũng tới, tôi nhận được số tiền ít ỏi nhưng rất quý giá là ba ngàn đồng. Thế nhưng, chưa mang được tiền về gởi cho thím, thì tiền đã bị người ta cướp mất. Tủi thân, và tiếc vì đã đánh mất số tiền có thể phụ giúp cho thím, tôi khóc. Chị nhân viên ở đó thương tình đã cho tôi một tháng lương của chị ấy. Thấy tôi không nhận, chị ấy bảo: “Cứ cầm lấy, tháng lương sau trả cho chị cũng được!” Tôi nghe lời chị, cầm số tiền về đưa cho thím, phụ bớt những khó khăn trong nhà. Nhờ những người bạn như thế, tôi làm được ở nơi sản xuất kem hai năm. Nhưng vì đồng lương ít ỏi, tôi xin nghỉ chuyển sang nơi khác làm. Tôi và thím cùng đến làm trong nhà hàng bán Hamburger. Ông chủ người Đài Loan sắp xếp tôi vào khâu cắt cổ gà. Lúc đó, tôi chưa có nhân duyên biết đến Phật pháp; vì thế mà cứ vô tư tạo nghiệp, lại còn cảm thấy mình may mắn vì có công việc ổn định. Hàng ngày tôi phải cắt cổ ba mươi con gà, tôi làm công việc đó khoảng ba năm, cho đến lúc nhà hàng bị phá sản. Nghỉ ở nhà hàng Hambuger, tôi chuyển sang phụ quán cơm, quán nhậu. Một thời gian sau tôi xin được công việc phụ bếp cho cửa hàng người Hàn Quốc.

Trong thời gian làm phụ bếp, tôi gặp chồng mình, nên duyên vợ chồng rồi sinh con. Để chăm sóc con cho tốt, tôi đã nghỉ làm khi sinh nở. Lúc ấy, chồng thường xuyên đi vắng, hai mẹ con tôi ở nhà nương tựa vào nhau. Khi bé ốm đau, cần chở đi bác sĩ khám, tôi nhờ hàng xóm xung quanh. Cứ thế mà mọi khó khăn đều vượt qua. Con được bảy tháng tuổi, tôi thu xếp đi làm từ sáng đến 2h chiều, rồi về đón con. Song bé còn quá nhỏ nên ốm đau nhiều, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể đi làm nửa tháng, còn nửa tháng ở nhà chăm sóc con. Tôi ở nhà vừa chăm con, vừa nhận trông giữ trẻ để có thêm thu nhập. Khi ấy, cuộc sống gặp nhiều vất vả, nhưng tôi vẫn tin rồi từ từ mọi thứ sẽ khá hơn. Ai ngờ đâu, vào năm 2007, tôi phát hiện ra lưỡi mình bị lở bên phải. Tôi đến nhiều bệnh viện để khám, từ chuyên khoa Da liễu, tới Ung bướu rồi đến Tai mũi họng, các bác sĩ đều nói tôi chỉ bị viêm, nóng trong người. Tôi dùng nhiều đơn thuốc mà không khỏi, chuyển qua đắp thuốc Nam cũng không hết. Tôi đi nhiều thầy thuốc, ai chỉ đâu tôi cũng đi, nhưng bệnh không hết mà vết loét ngày càng to hơn.

Năm 2008, tình hình vết loét càng nghiêm trọng hơn, lưỡi tôi bị thủng một lỗ ở bên phải, tôi càng cảm thấy đau nhức hơn. Đau đớn hành hạ, tôi chỉ có thể ăn cháo. Không những thế, cứ đến 5 giờ chiều tôi lại lên cơn sốt cao, toàn thân đau đớn, chỉ biết ôm đầu khóc, lúc đó mong ước lớn nhất là làm sao có thể thoát ra khỏi cơn đau này, dù có phải chết. Mỗi ngày như thế, tôi đều phải sang nhà bác sĩ gần nhà khám và chích thuốc giảm đau. Bác sĩ khuyên tôi đi khám Da liễu. Tôi đến bác sĩ da liễu khám thì được đưa hai liều thuốc và bác sĩ dặn: “Nếu uống hai ngày không khỏi thì phải qua bệnh viện Ung Bướu khám”. Tôi lo sợ vô cùng, hai ngày sau tôi đến bác sĩ Bệnh viện Ung bướu khám bệnh. Bác sĩ cắt một phần rất nhỏ lưỡi của tôi đi xét nghiệm tế bào, và hẹn một tuần sau đến lấy kết quả. Bảy ngày sau đến nhận kết quả, bác sĩ bảo tôi cần nhập viện mổ gấp. Tôi như bủn rủn hết chân tay và sợ hãi khi bác sĩ chẩn đoán tôi bị ung thư lưỡi. Tôi như cái xác không hồn, không còn biết gì nữa. Tôi định thần một lúc, rồi ra quầy làm thủ tục nhập viện, tại đây tôi thấy nhiều người khóc, chắc có lẽ họ cũng gặp những căn bệnh hiểm nghèo như tôi. Song tôi chưa hoàn tâm, có lẽ vậy mà tôi không thể khóc được! Trên đường về tôi như không còn biết nhà mình ở đâu nữa, cứ lẩn thẩn ngoài đường.

Về đến nhà, tôi báo cho chồng và chị em mình biết bệnh tình của mình. Nhắc đến “ung thư” mọi người đều khóc, nghe đến “ung thư” dường như là đang đến gần cửa tử. Lúc ấy tôi mới òa khóc và nghĩ: “Vì sao con không ở ác mà ông trời khiến con bị bệnh ung thư quái ác thế này!”

Sau khoảng nửa tháng, tôi mới cùng chồng đi làm thủ tục nhập viện và quyết định mổ. Tôi mổ vào tám giờ sáng ngày hôm trước mà đến bốn giờ sáng ngày hôm sau mới được ra phòng hồi sức. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình bị mổ ở cổ. Tôi cứ ngỡ là mình bị câm rồi! Trong tôi giờ chỉ còn tuyệt vọng! Nghĩ lại, lúc này tôi nằm quằn quại trên giường bệnh có khác gì khi xưa những con gà quằn quại trong lúc đợi tôi cắt cổ. Đau đớn về thể xác tận cùng, cái cổ đau, cái lưỡi cũng không thể ăn, không thể nói, khiến tôi không chịu để bác sĩ đưa ống dây dài vào mũi. Lúc này quả thật tôi chỉ mong sao mình có thể chết!

Thời gian sau khi mổ, tôi ăn cháo, uống thuốc đều thông qua đường mũi; ăn cháo phải xay lỏng ra bỏ vào ống xi-lanh rồi mới bơm trực tiếp qua đường mũi. Lúc đó, tôi cũng không nói được, muốn nói gì cũng phải viết vào giấy đưa cho người thân. Sang đến ngày thứ Ba, cổ còn đau, nên tôi không thể tự ngồi lên nằm xuống được, tất cả đều cần nhờ người giúp. Về đêm, tôi không thể ngủ được, cứ nằm xuống là bị dây thọc xuống bao tử vô cùng đau đớn. Tôi cứ ôm bụng đi tới, đi lui, hết đi lại ngồi co ro ngoài hành lang cho tới gần sáng trong bệnh viện. Hành lang ấy dường như là bất tận, nó khiến tôi lang thang trong nỗi đau, để rồi gục ngã bởi tuyệt vọng.

Mấy ngày sau, bác sĩ rút ống và cho tôi tập ăn bằng đường miệng, điều tưởng như rất quen thuộc nhưng sao giờ thật khó! Tôi tập uống một xíu nước mà không uống được, nước không thể xuống được cổ họng mình. Tôi uống một ly nước chút xíu cũng mất nửa tiếng đồng hồ, tôi nhấp từng tí nước một mới có thể uống được. Rồi sau đó, mới tập ăn lại, tôi phải ăn cháo xay thật lỏng, nhìn người khác ăn cơm mà thấy thèm lắm. Tôi nằm viện được mười ngày thì bác sĩ cho tôi về để chờ ngày xạ trị. Tôi về trong nửa tháng, sức khỏe chưa ổn định, lại phải đến Bệnh viện Răng hàm mặt khám bệnh. Ở đây, bác sĩ nói tôi cần phải nhổ hết năm cái răng hàm mới có thể tiến hành xạ trị. Một ngày bác sĩ nhổ ba cái răng hàm, rồi sang ngày khác nhổ thêm hai cái răng hàm nữa. Tôi nhổ răng về như chết lần hai, đêm nằm không ngủ được, máu cứ chảy ra từ vết mổ của tôi. Một ngày tôi phải dùng hết một cây giấy để thấm máu vì lúc nào máu cũng chảy ra từ trong miệng. Nhổ hết năm cái răng hàm, nó hành tôi đau nhức cả đêm lẫn ngày. Đau nhức quá, tôi chẳng thể ăn cháo, chẳng thể uống sữa, tôi cứ thế nằm ôm đầu khóc. Rõ ràng tôi muốn chết cũng không chết được, cứ sống lắt lay cùng những cơn đau! Những cơn đau thay phiên nhau cấu xé thể xác và tinh thần của tôi lúc đó. Tôi đi từ tuyệt vọng này đến tuyệt vọng khác. Thế nhưng tôi không thể chết được, vì giờ đây tôi còn phải sống cho con nữa, con tôi còn quá nhỏ, bé cần bàn tay chăm sóc của mẹ.

Nửa tháng sau, tôi có quyết định ngày bắt đầu tiến hành xạ trị.

Đợt đầu tiên xạ trị, tôi phải xạ trị đến 25 tia. Mỗi ngày tôi bắt đầu xạ trị từ 1 giờ chiều, vì nhà xa nên 12 giờ trưa đã phải bắt đầu đi từ nhà mình. Mười bốn tia đầu tiên, sức khỏe ổn hơn, tôi có thể tự đi xe đến bệnh viện xạ trị. Đến tia thứ 15, da mặt tôi bắt đầu đen sạm như con gà ác, chỉ chừa có đôi mắt thôi. Máu từ miệng cứ chảy ra, lúc đó miệng tôi cứng ngắc không nói được nữa. Đến tia thứ 20, tôi muốn bỏ cuộc. Bỏ cuộc thật sự, tôi không còn ý muốn xạ trị nữa, người tôi lúc đó đã yếu từ từ rồi, hơi sức cuối cùng cũng đang vơi đi.

Gương mặt tôi xấu xí, mệt mỏi đánh mất dần tinh thần của tôi. Chồng tôi đi làm xa, cũng không gọi về hỏi thăm sức khỏe, tôi có gọi thì anh bảo bận đi làm mệt nên không về. Lúc ấy, tôi vẫn chưa nghĩ đến chồng muốn xa lánh mình. Giữa cơn đau bệnh tật, tôi như đang ở dưới hố sâu, không ai cứu mình hết, thì chồng tôi về bảo sẽ đi lấy vợ khác. Bất ngờ quá, tôi chưa biết nói gì với chồng mình. Rồi sau đó, khi bình tâm lại tôi bảo với anh: “Nếu anh muốn lấy vợ, thì cứ lấy 10 vợ cũng được. Nhưng bây giờ, em đang bệnh, anh đừng nói như thế trước mặt em. Nếu anh thương con, anh động viên để em sống nuôi con mình”. Anh ấy không nghe, cứ về kiếm chuyện với tôi rồi hằn học, anh vẫn quyết muốn đi lấy vợ. Tôi tuyệt vọng. Tối nào tôi cũng thui thủi ôm con mà khóc. Khi ấy, anh chị tôi phải đi làm, chỉ còn thui thủi hai mẹ con. Khi tôi mổ, anh chị thương nên đều cố gắng xin nghỉ để chăm sóc cho tôi. Đến khi xạ trị, anh chị không thể nghỉ làm thêm nữa, tôi phải tự chăm sóc con, tự nấu cháo, xay cháo cho mình ăn. Tôi ôm con mình khóc, lúc đó bé mới chín tuổi. Nhiều đêm nằm tôi nghĩ đến con mình mà thương, mà tiếp tục sống. Chứ đau đớn tột cùng vì bệnh tật, chồng thì hắt hủi muốn tìm đến hạnh phúc khác; tôi chỉ muốn tìm đến cái chết. Nhiều khi ai bán thuốc chuột đi ngang qua, tôi chỉ muốn gọi vào mua một liều uống rồi chết. Nghĩ đến bé, mới chỉ có chín tuổi, còn bé bỏng quá rất cần bên cạnh mẹ, nên tôi không còn dám can đảm tìm đến cái chết. Nhiều đêm tôi thức trắng với những nghĩ suy đó.

Đến tia thứ 25, tôi kiệt sức thật sự, khi vừa về đến nhà nằm bẹp giường, không thể ngồi dậy nổi. Lúc đó, chồng tôi không về, chỉ có hai mẹ con với nhau. Khi mệt quá, tôi nhờ mấy đứa cháu chở bé đi học. Khi khỏe hơn một chút, tôi ráng gượng dậy tự chở con đi học. Hàng xóm thấy thương, cứ bảo: “Thôi để mấy chị đi chở bé giùm luôn”. Xạ trị xong, thời gian dài không ăn được gì, ăn gì vào cũng ói ra hết, sức khỏe tôi kiệt quệ nhiều. Ba tháng trôi qua, tôi bị mất ngủ triền miên, phải tới nhà bác sĩ mua thuốc ngủ về uống, thế mà cũng chẳng ngủ được. Bác sĩ không dám bán thuốc ngủ cho tôi nữa, vì sợ uống một thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến thần kinh. Thức trắng nhiều đêm, uống thuốc ngủ nhiều, làm tinh thần tôi không còn tỉnh táo, sáng suốt nữa. Nhiều đêm, tôi cầm dao như muốn đâm chính mình, rồi nhìn đến con, tôi không còn can đảm đâm nữa! Tôi nghĩ đến số phận mình, mẹ tôi mất sớm, cha tôi lại ở xa, nên mọi đau đớn đều phải tự gánh chịu một mình. Chỉ mới ba tháng điều trị, tôi đã sút đến mười mấy ký, tôi chỉ còn 39 ký. Tôi nghĩ mình không thể sống được, chắc chắn phải đối diện với cái chết. Tôi đã nghĩ đến cái chết, nhưng nếu tôi chết thì ai sẽ nuôi con mình đây?

Khi xạ trị xong, gương mặt đen sạm đi dần, máu trong miệng cứ chảy ra, tôi đi đâu cũng phải mang khẩu trang. Mặt trông giống như con gà ác, tôi không còn dám nhìn chính mình nữa. Người ngoài không biết, cứ bảo: “Sao không mở khẩu trang ra mà nói chuyện?”, tôi chỉ biết làm thinh không nói gì. Lúc đó, tôi thấy gương mặt ấy không còn là của mình nữa rồi! Cứ thế, tôi không muốn tiếp xúc với ai, kể cả người thân. Tôi mặc cảm nghĩ rằng: “Chồng mình nhiều khi còn muốn xa lánh, huống hồ gì người ngoài”. Tôi cứ đóng cửa, nằm trong nhà một mình khóc. Tôi có một quán tạp hóa nho nhỏ để buôn bán, lúc nào khỏe thì mở ra bán, mệt thì đóng cửa nằm khóc trong nhà. Những tưởng tôi sẽ sống mãi như thế cho đến ngày sức cùng lực kiệt, thì đau đớn sẽ buông tay để tôi dễ dàng ra đi! Nhưng không, duyên lành cũng đã đến với tôi trong những ngày cùng cực nhất!

Cách nhà khoảng một cây số, có cụ già hay lui tới hàng xóm ăn bánh cuốn. Bà còn phụ giúp công việc ở tiệm bánh cuốn, nên chị chủ quán đã kể cho bà nghe hoàn cảnh của tôi. Một hôm, bà kéo cửa vào nhà rồi động viên tôi: “Cháu đừng dại gì mà chết, tự tử là đày xuống địa ngục chứ chưa trả hết nợ đâu”. Lúc đó tôi chỉ biết, chết là hết chứ chưa biết chết rồi nghiệp báo chưa trả sẽ vẫn còn đeo bám theo mình. Thấy tôi cứ nằm khóc, bà khuyên nhủ rồi đưa cho tôi băng đĩa Phật Pháp Nhiệm Mầu, đĩa giảng của quý thầy chùa Hoằng Pháp. Bà đưa cho tôi băng Niệm Phật Chuyển Hóa Tế Bào Ung Thư. Lúc đó, tôi chưa tin vào Phật pháp, tôi nghĩ bệnh ung thư bác sĩ còn không chữa được, thì làm sao niệm Phật có thể giúp được mình. Tôi không chịu đi chùa, bà ngày nào cũng kiên trì mở cửa vào nhà khuyên nhủ. Cảm động trước tấm chân tình của bà cụ, vả lại cũng không muốn bà buồn, nên những lúc bà sang chơi, tôi đều cùng bà ngồi xem băng đĩa. Không ngờ đó là nơi bắt đầu gieo duyên lành của tôi với đạo Phật. Nghe quý thầy giảng, tôi bắt đầu biết được “Gieo nhân gặt quả”, nghe vậy nhưng mà tôi vẫn chưa tin. Tôi cứ nghe giảng vì người bà hiền lành, nhiệt tình với tôi. Bà bảo tôi: “Con cứ nghe giảng rồi bà dắt con đi chùa, nhiều khi bệnh của con là bệnh nghiệp. Đi chùa, niệm Phật sám hối làm thiện rồi dần dần có khi được hết bệnh!” Tôi vẫn chưa tin.

Có một ngày bà đến, và nói ngày mai có khóa tu ở chùa Pháp Bửu, sẽ dẫn tôi đi niệm Phật, đi kinh hành. Thương bà nhiệt tình với mình, nên tôi đồng ý cùng bà đi chùa. Đến chùa mà lòng tôi chưa tịnh, nghe quý thầy tụng kinh niệm Phật, tôi chỉ ngồi trách phận mình. Vì sao bệnh ung thư lại đến với mình? Vì sao chồng tôi lại đối xử tàn nhẫn đến vậy? Nghe quý thầy và Phật tử niệm Phật, những suy nghĩ trăm mối trong đầu, tôi lại khóc nhiều hơn. Tôi chưa thể chú tâm vào câu niệm Phật. Một tháng sau, hai mẹ con tôi trở về quê ngoại ăn tết thời gian ngắn. Khi trở lại Sài Gòn, bà vẫn không quên tôi, vì thế tôi rất thương bà. Bà đến gần tôi rồi nói: “Nếu con muốn đi chùa niệm Phật, thì cần phải quy y. Quy y là mình giữ năm điều cấm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không uống rượu”. Nghe thấy vậy, tôi như sực tỉnh, bốn điều cấm sau không phạm phải, nhưng “tội sát sinh” thì tôi mắc phải rồi. Bà nhắc đến sát sinh, tự nhiên tôi rùng mình, thấy bao tội lỗi của mình. Tôi ngộ ra, có lẽ ngày xưa mình sát sinh nhiều quá nên mới bị quả báo như bây giờ. Mặc dù cảm thấy sợ hãi, nhưng tôi vẫn chưa tin hẳn. Bà nói nếu tôi đồng ý sẽ đăng ký cho quy y vào ngày rằm tháng Giêng ở chùa Huỳnh Kim, Gò Vấp. Thương bà, tôi đồng ý đăng ký quy y. Vào ngày rằm tháng Giêng, tôi đến chùa nghe các thầy giảng về ăn chay niệm Phật, sát sinh và quả báo phải nhận khi sát sinh. Lúc đó, tôi khựng lại, nhớ đến lỗi lầm của mình ngày xưa. Ngày xưa tôi cắt cổ gà như thế nào thì giờ phải nhận quả báo như vậy. Tôi nhớ đến mình khi nằm bệnh viện, cũng nằm quằn quại trên giường bệnh, như mấy con gà ngày xưa khi tôi cắt cổ cũng quằn quại như vậy. Bác sĩ trị bệnh phải mổ tôi từ cằm đến chỗ mang tai chừng một gang tay, cắt hết một phần hai lưỡi... Chính lúc đó tôi nhận ra sai lầm của mình!

Sau khi nghe quý thầy giảng về sát sinh, trở về nhà tôi cũng sợ. Trong quá khứ, tôi làm công việc cắt cổ gà ở một cửa hàng làm bánh Hamburger. Trung bình mỗi ngày phải cắt cổ ba mươi con gà, tôi làm công việc đó trong vòng ba năm liên tục. Tôi cảm thấy sợ hãi khi đã sát sinh quá nhiều, đến bây giờ nghiệp phải nhận quả báo rồi.

Quy y xong, bà khuyên tôi nên thỉnh tượng Phật về, hàng ngày tụng kinh niệm Phật. Tôi nghe lời bà, đi thỉnh tượng Phật. Lúc đó, còn bỡ ngỡ với nhiều điều, tôi chưa biết tụng kinh, bà trao cho tôi quyển kinh Nhật Tụng ở chùa Hoằng Pháp. Tôi đọc một ngày vẫn chưa thuộc được nửa biến của chú Đại Bi, tôi ngồi khóc với bà. Bà thương nên bảo với tôi: “Con bây giờ đã nhận ra tội của mình, ngày nào con cũng cần phải sám hối”. Nghe lời bà, tôi không khóc nữa, ngày nào cũng chắp tay, sám hối: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, ngày xưa con không biết, con còn u minh, còn tham sân si, còn sát sinh, con chưa biết đến Phật pháp. Bây giờ, con thành tâm sám hối với Bồ Tát Quán Thế Âm, con sẽ không bao giờ sát sinh nữa; con sẽ đi phóng sinh, ăn chay, niệm Phật”.

Một hôm, bà dẫn tôi đến nhà chị Hai, chị ấy cũng đi phóng sinh được mười mấy năm. Chị Hai giảng thêm cho tôi về sự sát sinh, về ăn chay niệm Phật. Từ đấy trở đi, tôi hướng đến Phật pháp, tin sâu về sự diệu kỳ của Phật pháp. Tôi hiểu, giờ quả báo của mình thì tự mình phải trả, tôi không nghĩ đến cái chết nữa. Tôi dặn chị hai, nếu có dịp đi phóng sinh nhớ gọi mình đi cùng. Tôi đi theo Phật tử và quý thầy chùa Hoằng Pháp tham gia các hoạt động phóng sinh. Cùng đi với các Phật tử tụng kinh, niệm Phật, tôi dần tìm thấy sự bình yên trong lòng. Từ ngày tôi bước chân vào cửa Phật, biết đến chùa Hoằng Pháp, tôi hiểu và tin sâu hơn về đạo Phật cũng khoảng một năm. Cũng từ đây, tôi khởi tâm muốn cho chị em và hàng xóm mình cũng biết về phóng sinh, tụng kinh, niệm Phật. Tôi cùng vài người gom góp tiền mua cá về nhà, thêm phước duyên được mời các Phật tử ở chùa Hoằng Pháp đến tụng kinh. Sau đó, mọi người hoan hỷ cùng đi thả cá phóng sinh.

Lúc bắt đầu tập ăn chay, tôi chọn ăn chay bốn ngày trong một tháng, dần dần tăng thêm ăn chay mười ngày. Sau này, tôi thử ăn chay trong vòng một tháng nhưng vẫn còn thèm đồ mặn. Nhiều khi, tôi nấu cho con mình ăn còn dư thì tôi lại ăn tiếp. Tôi vẫn chưa dứt được nghiệp. Nhưng rồi, tôi nhớ đến quyết định ăn chay để chuộc lại lỗi lầm của mình, tôi không dám sát sinh nữa. Một buổi tối, tôi nằm mơ thấy mình đến nhà em ở Hóc Môn chơi, nhưng không vào được nhà. Có con chó to như chó Berger cứ thấy tôi là há miệng ra sủa, đòi cắn lấy tôi. Chị em tôi cứ gọi, mà tôi không thể vào được nhà. Ngày hôm sau, thức dậy tự nhiên tôi không thèm đồ mặn nữa, kể từ đó tôi quyết định ăn chay cho đến bây giờ. Mỗi lần tụng kinh, tôi đều thành tâm sám hối với Bồ Tát. Kể từ đó, mỗi lần đi phóng sinh ở chùa Hoằng Pháp tôi đều đến sớm hơn, để ra tượng Quan Thế Âm Bồ Tát sám hối. Tôi quỳ lạy trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và sám hối: “Bây giờ con sám hối với Bồ Tát là không bao giờ tái phạm nữa. Con sẽ không sát sinh, không làm điều ác nữa. Con sẽ ăn chay niệm Phật, cùng mọi người đi phóng sinh. Mong Bồ Tát gia hộ cho con được tai qua nạn khỏi, các bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ”.

Từ ngày phát tâm ăn chay, tụng kinh niệm Phật, sức khỏe tôi tốt hơn, thể trạng khỏe mạnh hơn, nên tôi tăng được mười sáu ký (từ 39 ký lên 55 ký). Tôi cảm thấy khỏe, không còn thèm ăn đồ mặn. Hàng ngày, buổi sáng tôi tụng kinh từ 4 giờ đến 5 giờ, đến chiều từ 3 giờ đến 4 giờ. Đến 7 giờ tối thì con tôi bắt đầu học, tôi thu xếp thời gian chỉ bảo cho con mình. Vì thế, tôi sắp xếp thời gian tụng kinh ngày hai lần vào giờ sớm hơn để thuận tiện cho cả hai mẹ con. Mỗi lúc tụng kinh, tôi cũng vui lắm. Từ đó trở đi, tôi không còn nhớ những khổ đau do chồng làm mình tổn thương nữa. Mọi người thấy tôi bây giờ khỏe mạnh, cũng hỏi thăm vì sao thế? Tôi kể về Phật pháp đã cứu đời mình, khuyên mọi người tránh sát sinh để phải nhận quả báo giống tôi. Lúc mình chưa đến ngày nhận quả báo thì mình chưa biết, đến rồi thì đau khổ, tuyệt vọng. Tôi khuyên mọi người đừng sát sinh, kể cả con kiến cũng không giết. Bé nhà tôi cũng nghe lời, mỗi lần có con kiến bò vô người tôi bắt thì bé bảo: “Mẹ đừng có sát sinh nữa”. Nghe con nói vậy, tôi mừng lắm! Vì bé nghe lời tôi, bé còn nhỏ mà hiểu được câu tôi nói. Tôi thấy trong người rất an lạc, hạnh phúc.

Rồi tự nhiên, chồng quay về lại nhà, không còn kiếm chuyện nữa, không những thế anh còn vui vẻ chở tôi đi phóng sinh, hay động viên tôi đi chùa. Bây giờ, tôi thật sự cảm thấy vui sướng. Vừa rồi, tôi đến bệnh viện làm xét nghiệm máu và thử các kết quả, bác sĩ đưa ra kết luận tôi đã hết bệnh, không còn dấu hiệu ung thư. Nghe kết quả xong, tôi đã khóc vì quá vui mừng. Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát đã thấy được lòng thành của tôi, gia hộ cho tôi tai qua nạn khỏi. Khi về nhà tôi mua trái cây, hoa về dâng lên Quan Thế Âm Bồ Tát. Ngồi tụng kinh tôi khóc, rồi bạch với Bồ Tát: “Con vui mừng quá nên con khóc, con được Bồ Tát Quan Thế Âm cứu lấy cuộc đời, gia hộ cho con hết bệnh. Con xin Bồ Tát gia hộ cho con được đến chương trình “Phật Pháp Nhiệm Mầu”, để con kể câu chuyện của mình, để nói với đại chúng là đừng bao giờ sát sinh, hạn chế sát sinh, nếu còn sát sinh có thể chịu đau khổ giống như con”. Và bây giờ tôi thật may mắn khi được ngồi đây kể lại câu chuyện này cho quý bạn đạo nghe. Giờ đây tôi thấy bình yên đến lạ. Hạnh phúc bình dị của tôi là hết bệnh, sống vui vẻ bên cạnh chồng và con cái chăm lo vào học hành. Có lẽ, điều đó đến từ tấm lòng thành biết sám hối tội lỗi của mình.

Nhân vật: Phật tử Diệu Phước

Nhận định của thầy Thích Chân Tính

Chúng ta có thể nhìn thấy bài học về nhân quả trong câu chuyện cuộc đời của cô Diệu Phước. Trong cuộc sống, vì miếng cơm, manh áo, chúng ta phải đi làm để có tiền mưu sinh. Thế nhưng, cũng do vô minh, chúng ta không biết được nhân quả tội phúc, nghiệp báo luân hồi nên đã làm bất cứ việc gì, miễn là có tiền, miễn là nuôi sống được bản thân. Từ chỗ đó, chúng ta đã gây tạo rất nhiều tội lỗi mà không biết. Điển hình như trường hợp của cô Diệu Phước, trong kinh thường nói “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ Tát khi làm một điều gì nghĩ đến hậu quả của nó, nên cân nhắc dè dặt để không bị quả báo, còn chúng sinh cứ làm, miễn là có tiền, thỏa mãn dục vọng của mình là được, đến khi quả báo đến phải chịu biết bao nhiêu đau khổ mới than trời, trách đất. Trong Quy Sơn Cảnh Sách có đoạn:

Giả sử bá thiên kiếp      

Sở tác nghiệp bất vong

Nhân duyên hội ngộ thời

Quả báo hoàn tự thọ.

Nghĩa là, dù trải qua trăm nghìn kiếp, một khi hạt giống đã gieo, đủ nhân duyên sẽ ra hoa, kết quả. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật cũng đã dạy: “Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn sâu xuống dưới đáy biển, dù tìm khắp thế gian này, không có nơi nào trốn khỏi ác nghiệp đã gây”. Nhân quả rất công bằng, chỉ có quả đến nhanh hay chậm mà thôi, đã gieo nhân chắc chắn một ngày nào đó phải nhận lấy quả báo mà mình đã gieo. Đức Phật dạy có: “Hiện báo, sinh báo và hậu báo”. Hiện báo nghĩa là ngày hôm nay mình gieo một hạt giống thì ngày mai hoặc trong đời này sẽ gặt quả, đó gọi là “hiện báo”. Ngày hôm nay chúng ta gieo hạt giống, tạo nghiệp nhân ác nhưng có thể kiếp sau mới thọ nhận quả báo, đó gọi là “sinh báo”. Ngày hôm nay, chúng ta gieo hạt giống, gây tạo nghiệp nhân nào đó, có thể năm, mười kiếp sau mới nhận lãnh hậu quả, đó là “hậu báo”. Chúng ta thấy quả báo không sai chạy, có người nhận quả báo hiện tiền, cũng có khi ngày nay gây tạo nhưng đời sau hoặc vài đời sau nữa quả báo mới đến. Trường hợp của cô Diệu Phước chính là quả báo hiện tiền.

Có một lần, các đệ tử bạch với đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn, đã bao nhiêu kiếp Ngài đi qua, vượt qua?”. Đức Thế Tôn trả lời: “Rất nhiều, này các Tỳ kheo, những kiếp ta đã đi qua, ta đã vượt qua, thực ra không thể kể đến được những kiếp ta đã đi qua là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài chục ngàn kiếp, hay một vài trăm ngàn kiếp”. Các đệ tử hỏi tiếp: “Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài có thể cho chúng con một ví dụ”. Đức Phật trả lời: “Này các Tỳ kheo, ví như có bốn người đệ tử, mỗi người đệ tử sống một trăm năm, một ngày người đệ tử đó nghĩ về một trăm ngàn kiếp quá khứ. Vậy thì bốn người này một người sống một trăm năm, mà mỗi một người một ngày nghĩ về một trăm ngàn kiếp cứ cộng lại thì đó là bao nhiêu kiếp đức Thế Tôn đã đi qua”.

Khi đọc bài kinh này, tôi mới thấy được rằng trong vô thỉ kiếp chúng ta đã trôi lăn trong vòng luân hồi lục đạo này không thể tính đếm được. Đức Phật dùng ví dụ “một ngày nghĩ về một trăm ngàn kiếp, cộng một trăm năm và nhân cho bốn người” ý muốn nói rằng chúng ta đã trải qua không biết bao nhiêu đời kiếp trong quá khứ. Mỗi một kiếp chúng ta đã tạo bao nhiêu nghiệp ác? Thử tưởng tượng ngay trong một đời này thôi, lấy tiêu chuẩn là năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, chúng ta đã phạm bao nhiêu? Rất nhiều! Vậy thì quá khứ hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu, hàng tỷ kiếp về trước chúng ta đã tạo bao nhiêu nghiệp ác? Kiếp thứ nhất chúng ta tạo nghiệp ác, kiếp thứ hai trả chưa hết đã tạo dồn qua kiếp thứ ba, đến kiếp thứ ba trả thì ít mà tạo thì nhiều… Đây là sự thật. Trong một đời, chỉ tính đến giới sát sinh thì quý vị đã tạo nghiệp bao nhiêu rồi? Vậy thì, trong vô thỉ kiếp đến giờ, chúng ta gây tạo quá nhiều, trả chưa hết mà cứ chồng chất thêm những nhân mới. Có nhiều người mới tu được một chút đã bảo tu mà Phật không chứng toàn gặp tai nạn. Trong khi hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu, hàng tỷ kiếp chúng ta tạo, mà giờ mới tu một thời gian ngắn đã đòi hóa giải hết nghiệp quả. Rồi nghĩ rằng Phật pháp không linh, rồi đôi lúc chúng ta chán nản không muốn tu. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Nghiệp ác của chúng sinh nếu có hình tướng thì mười phương hư không không thể chứa hết”. Quả thực, nếu tội ác chúng ta có hình tướng thì không biết chỗ nào chứa hết được tội nghiệp của chúng sinh!

Tất cả chúng ta, ai cũng mưu sinh, phải sống, phải ăn, thế nhưng nên suy nghĩ kỹ về nghề nghiệp của mình. Có thể nghề nghiệp của mình ngày hôm nay kiếm được nhiều tiền nhưng nếu đó là nghề ác thì chúng ta dứt khoát không làm, bởi vì cái lợi của đời này không bằng cái khổ của nhiều kiếp về sau. Đời này chúng ta còn được làm người, đời sau phải đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; quý vị thấy cái khổ gấp trăm gấp ngàn lần so với cái sung sướng hưởng thụ ở trên cuộc đời.

Tôi rất mong quý vị qua câu chuyện cuộc đời của cô Diệu Phước, lấy đó làm bài học cho mình. Chúng ta cố gắng không sát sinh, bởi không có tội nào nặng bằng tội sát sinh và cũng không có phước nào lớn bằng phước phóng sinh. Chúng ta cứ lấy thân của mình mà suy ra thân của chúng sinh, khi chúng ta sắp sửa bị người ta đánh đập, giết chết, chúng ta lo sợ, đau khổ như thế nào? Và trong lúc đó, nếu được ai cứu thoát khỏi cái chết thì chúng ta sung sướng như thế nào? Từ đó, chúng ta mới cảm nhận được loài vật cũng biết quý tiếc mạng sống như con người vậy.

Tôi cũng nghĩ, phải có một phần thưởng xứng đáng cho bà cụ đã giúp cho cô Diệu Phước biết được Phật pháp. Chúng ta cần có những lời ca ngợi tán thán bà cụ đã cứu được một con người từ chỗ tuyệt vọng đau khổ để ngày hôm nay biết được Phật pháp, biết được tu để giải thoát cái nghiệp, cái khổ của mình. Tôi cũng mong rằng tất cả quý Phật tử noi gương bà cụ. Trong cuộc sống có rất nhiều người vì vô minh nên họ lao vào làm những điều ác mà không biết. Vậy, mình phải thương tất cả những người đang trong hoàn cảnh đó, giúp họ biết và hiểu sâu được Phật pháp. Cho người ta tiền không bằng cho người ta biết đến Phật pháp. Nếu cho tiền tiêu xài xong rồi thôi, họ sẽ tiếp tục làm những điều tội lỗi. Còn chúng ta nối nhân duyên họ với Phật pháp, họ hiểu rồi tự biết tu, tự tránh xa con đường tội lỗi, tự tạo cho mình phước báu trong đời này, đời sau.

Phật pháp luôn hiện hữu xung quanh, ai trong chúng ta cũng có thể đạt được sự nhiệm mầu nếu chúng ta tìm được minh sư đúng nghĩa và nỗ lực tinh tấn tu tập đúng pháp mà đức Thế Tôn đã truyền trao. Cô Diệu Phước cũng thế, khi vô minh không hiểu được nghiệp báo, nhân quả, cô đã gây ra nhiều tội lỗi, nhưng khi hiểu được Phật đạo, cô đã quay về với chính mình tinh tấn tu tập để chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra như một lời sám hối chân thành và sự mầu nhiệm đã đến với cô.

(Biên tập từ chương trình Phật Pháp Nhiệm Mầu kỳ 27)

Sách cùng thể loại
Lá Thư Còn Lại 1
Lá Thư Còn Lại 1
Nhiều tác giả
Góc Khuất
Góc Khuất
Nhiều tác giả
Nghi Lễ Hằng Ngày
Nghi Lễ Hằng Ngày
Chùa Hoằng Pháp
Lời Người Còn Ghi Lại
Lời Người Còn Ghi Lại
HT. Ngộ Chân Tử
Lá Thư Còn Lại 2
Lá Thư Còn Lại 2
Nhiều tác giả
Thương yêu sự sống
Thương yêu sự sống
Thích Tâm An