
Lá Thư Còn Lại 1
Lá Thư Thứ 98
Người Thầy Tịnh Độ
Trong hai mươi bảy năm hiện hữu trên cuộc đời này, tôi may mắn và hạnh phúc được sự chỉ bảo khuyến tấn từ một người thầy Tịnh độ.
Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên tới chùa đăng ký tập tu một tuần, khi không hề biết một chút gì về nội quy giới luật và đương nhiên chẳng có mối quan hệ quen biết bất cứ ai trong chùa. Đêm đầu tiên tôi ngủ tại chùa là đêm tôi không bao giờ quên. Vì trong giấc mơ tôi gặp một người thầy rất nhân hậu, từ bi nói chuyện với tôi... rồi đêm thứ ba tới đêm cuối tuần lại thấy thầy đó, khiến tôi cứ băn khoăn thắc, mắc mãi không hiểu có chuyện gì mà mình lại gặp thầy trong mơ hoài vậy...
Thế rồi, hết một tuần tu tập tôi về nhà lo công việc thường nhật, không hiểu sao tôi lại nhớ chùa và muốn tới nữa. Vậy là tôi quyết định tới nơi mình muốn tới và cũng là đi tìm hiểu về Phật pháp. Một hôm, tình cờ tôi đi ngang qua văn phòng của chùa thì thấy một thầy mặc áo nâu ngồi ở ghế đang tiếp khách rất đông, tôi chỉ nhìn thoáng qua và bỗng dừng lại tự đặt câu hỏi cho mình “Người thầy này sao giống với người mà mình đã gặp trong mơ...” Dòng người qua lại quá đông khiến tôi phải tìm một chỗ riêng cho mình và đi tìm bà... Tôi kể cho bà nghe về giấc mơ và thầy ở văn phòng mà tôi mới nhìn thấy. Rồi bà nói đó là thầy trụ trì. Tôi như chết lặng chẳng nói được gì và im lặng suy nghĩ nhiều điều với những câu hỏi đặt ra mà tự chính bản thân mình không giải thích được...
Sau đó, không biết nhân duyên thế nào, mà mỗi khi tôi gặp thầy là tôi tránh né khi trong lòng rất kính trọng như một người con với cha ruột. Tình cờ gặp thầy, tôi muốn chào mà không biết vì sao run quá rồi quên cúi đầu xá chào nên cứ bị hiểu lầm là vô phép. Có lần tôi nói vui là do lực thầy tu mạnh nên con run, lúc đó thầy cười rất đẹp. Điều đặc biệt ở thầy làm tôi ấn tượng đó là nụ cười mỉm chi từ bi và chiếc áo tràng màu nâu bạc thời gian đã sờn rách cổ, trong khi các đệ tử ai cũng đồ mới tốt đẹp đắt tiền theo kiểu dáng thời thượng mà Phật tử cúng dường. Bà cho tôi biết là thầy nói với bà nên lưu ý tới việc ăn uống của tôi - vì lúc đầu mới vào chùa tôi chưa quen giờ giấc sinh hoạt nên sức khoẻ bị giảm sút rất nhiều, tới nỗi mặt mày tái xanh, người thì như cây thiếu nước, chỉ cần gió thổi chắc tôi cũng bay như cánh diều... Một thời gian sau, tôi cũng đã quen với môi trường tu tập, quen mỗi sáng ăn cơm xong nghe thầy giảng pháp, mỗi khi thầy đi Phật sự dù xa hay gần thì lúc đó tôi muốn tới chào mà chẳng thể chào hay nói một câu, chỉ nhìn thầy rồi khóc lén vì thương gánh nặng trên đôi vai thầy... và chỉ mong sao thầy về sớm. Mỗi lần thầy đi Phật sự về là tôi mừng lắm, ra đón thầy như mọi người, nhưng không hiểu sao tôi không nói, hay chào hỏi gì mà chỉ đứng nhìn. Xung quanh thầy có nhiều đệ tử, Phật tử đại chúng chào hỏi thầy rất vồn vã, tôi im lặng bước đi mà trong lòng nặng trĩu, đè nén cảm xúc của một người con gái với người cha thân yêu đi xa lâu ngày.
Tôi cảm nhận là thầy biết rõ tính cách của tôi sống nội tâm, kín đáo. Mỗi khi nói chuyện với thầy tôi luôn đứng bên tay phải thầy, và hay đưa tay phải lên sờ đầu cười mỉm chi rồi nghiêng đầu qua bên phải theo thói quen. Thầy nói chuyện luôn nhỏ nhẹ, ngắn gọn, giản dị cho tới cách ăn uống, đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai. Thầy đã dạy tôi ba bài học mà suốt đời tôi không bao giờ quên đó là: chữ lễ, chữ nhẫn và vô sản. Ừ, cả đời của thầy tu hơn ba mươi năm chịu nhiều đắng cay, khổ cực, vất vả mới có ngày hôm nay để trở thành bậc chân tu đắc đạo, hoá độ chúng sinh. Vì vậy, tôi kính phục thầy chứ không phải vì thầy là thầy trụ trì của một ngôi chùa nổi tiếng. Mỗi lần, thầy nở nụ cười từ bi ai trông cũng thấy đẹp, nhưng không hiểu sao tôi lại thấy đằng sau nụ cười ấy là gánh nặng từng ngày trên vai. Khi sức khoẻ thầy không tốt, tôi thương thầy, lo cho thầy rất nhiều nhưng không thể làm giúp gì được... Tôi chỉ giúp được thầy đó là vận dụng những lời thầy khuyên bảo trên con đường tu học. Có một lần, tôi bị người ta hại tới mức muốn tìm cái chết, rồi tôi khóc rất nhiều vì tức tưởi. Tôi điện thoại gặp thầy và nói tất cả mọi chuyện. Thầy khuyên: “Chết để mà hết chuyện thì người ta chết từ lâu rồi, không có gì phải nhục cả, tu phải nhẫn nhục nhẫn nhịn, tu vậy mới là tu. Ngày xưa, thầy đi tu còn cực hơn nhiều”. Nước mắt tôi rơi vì thương cho thân phận mình và càng thương cho thầy nhiều hơn... Cho nên, khi biết người hại mình là ai, thì tôi coi như không biết và tha thứ cho họ, tôi chợt nhận ra rằng đó chính là nghiệp của mình phải trả để ra đi nhẹ nhàng thanh thản. Sau này, tôi đi xuất gia chỉ có thể để lại cho thầy một lá thư như đã hẹn và lạy thầy ba lạy rồi đi... tôi thầm cảm ơn thầy rất nhiều... Giờ đây không còn ở bên thầy, nhưng tôi không bao giờ bỏ chùa, không bao giờ bỏ thầy. Dù ở xa nhưng hình bóng thầy mãi luôn hiện hữu trường tồn trong tôi! Ngày sinh nhật thầy 53 tuổi sắp tới, tôi sẽ cố gắng về thăm thầy như một lời chúc, một lời tri ân người thầy Tịnh độ đầu tiên trong cuộc đời tôi. Có nhiều bài hát, bài thơ về thầy nhưng tôi luôn ghi nhớ bốn chữ Hoằng Pháp Lợi Sinh vì cả cuộc đời thầy luôn vì tâm nguyện đó. Và tôi mong ước mình cũng làm được như vậy.
“Người thuỷ thủ muốn vượt qua sóng gió phải vững chắc tay lái”. Đó là lời thầy dạy mà tôi tâm đắc nhất khi còn ở bên thầy và cho dù tôi đã đi xa, tôi muốn nói với thầy rằng: “Thầy ơi! Con cảm ơn thầy về tất cả”.
Hiền Huy Hoà Hiệp