Kỷ yếu 60 năm Thích Chân Tính
Vậy là một sự kiện đầy hân hoan và phấn khởi nữa lại đến với chùa chúng tôi, khi hôm nay Sư phụ tổ chức lễ thế phát xuất gia cho năm sư đệ. Vẫn như thường lệ, buổi lễ thế phát luôn được Sư phụ và quý thầy tổ chức rất trang nghiêm và ý nghĩa. Đây quả là một điều rất phước duyên cho những ai được xuất gia ở nơi đây.
Nhớ lại ngày nào khi chúng tôi cũng được Sư phụ tổ chức lễ thế phát, thấm thoát mà đã hơn ba năm trôi qua. Ngày đó, có một kỷ niệm mà cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ lại chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi cảm giác bàng hoàng, chới với mặc dù đó chỉ là một giấc mơ. Vào đêm cuối trước ngày xuất gia, tôi thấy cảnh tượng mình đi vào chánh điện, nhưng không có ai cả, không thấy Sư phụ đâu, không thấy quý thầy đâu, không thấy các anh em cùng làm lễ thế phát với mình đâu? Tôi đứng bần thần trong tâm trạng hoang mang, chới với, nghẹn ngào khi nhận ra mình đã về trễ. Rồi bất chợt, tôi bừng tỉnh giấc và dần hoàn hồn trong niềm vui sướng đến tột độ khi biết rằng đó chỉ là giấc mơ, giấc mơ chỉ là giấc mơ thôi... Sau đó, tôi không dám nhắm mắt trở lại cho đến khi hồi chuông vang lên. Thức dậy một ngày mới! Thức dậy một ngày đầy ý nghĩa của cuộc đời tu hành. Ôi! Vậy là giây phút ấy đã sắp đến, giây phút mà kể từ đây cuộc đời tôi sẽ bước sang một trang mới, với biết bao ý nghĩa, biết bao tò mò và khao khát về cuộc hành trình đi tìm sự giải thoát. Và cứ thế, tôi reo lên trong lòng mình như vậy, một cảm giác của sự hồi hộp, hạnh phúc xen lẫn sự lo lắng, đón chờ sự thật ấy diễn ra. Cho đến khi buổi lễ viên mãn, rờ tay lên đầu thấy tóc đã cạo, đầu đã nhẵn, tôi mới thật sự thoát khỏi nỗi bàng hoàng của giấc mộng ấy.
Trải qua hơn ba năm, được sống trong môi trường tu học trang nghiêm, kỷ cương, giới luật và hòa hợp; được sự sách tấn chỉ dạy thường xuyên của Sư phụ; được thấm dần tư tưởng hoằng pháp độ sinh của Ngài; được đi học tại các trường Phật học… tôi đã dần lớn lên trong ngôi nhà Phật pháp, dần lựa được cho mình những bước đi, dần hình thành cho mình phương hướng trên lộ trình đi đến sự giác ngộ, giải thoát. Và hơn lúc nào hết, càng ngày tôi càng nhận ra rằng, hai mục đích tối thượng của người xuất gia là “Trên cầu thành Phật - dưới hóa độ chúng sinh” cần phải được đồng hành cùng nhau trong suốt cuộc đời người tu sĩ.
Bây giờ, được sống trong môi trường mà xung quanh mình đang được soi rọi và bảo vệ bởi ánh sáng Phật pháp; được nhìn thấy ánh sáng ấy đang ngày càng lan tỏa đến mọi nơi, trong lòng tôi trào dâng niềm biết ơn vô hạn, đến các bậc Tổ sư đã có công hoằng truyền chánh pháp, giúp cho mọi người và cho hàng hậu học chúng tôi được tiếp cận giáo lý, được nhìn thấy con đường chân lý của mình. Nói đến đây, tôi càng thấm thía được tấm lòng của Sư phụ, khi mà ước nguyện luôn thôi thúc, cháy bỏng trong đời tu của Thầy là làm thế nào để tất cả mọi người đều biết đến Phật pháp. Đấy cũng chính là lý do mà những khóa tu đã được sáng lập lên như: Khóa Tu Một Ngày, Phật Thất, Sinh Viên, Thiếu Nhi… và các cơ sở, chi nhánh của chùa cũng đã và đang được hình thành ở khắp mọi nơi để hoằng truyền chánh pháp.
Trong hai mục đích quan trọng nhất của người xuất gia ấy, Sư phụ luôn nêu cao tinh thần hoằng pháp độ sinh. Và như một sự lựa chọn không thể khác, Sư phụ đã phải chuyển thời khóa công phu của mình vào nửa đêm vì ban ngày bận nhiều Phật sự. Đến lúc này, được ở bên Thầy, cùng đại chúng làm việc và tu tập, con mới hiểu lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng trong kinh Pháp Bảo Đàn:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ đề
Cáp như cầu thố giác.
Nghĩa là, Phật pháp ở tại thế gian này, cho nên không thể lìa thế gian mà có được sự giác ngộ. Nếu lìa thế gian mà muốn được giác ngộ, thì như người đi tìm lông rùa sừng thỏ. Bởi thế cho nên, người tu sĩ chúng ta cần phải làm hai việc ấy trong đời tu của mình. Có thể khi mới vào tu, năng lực còn yếu kém thì chúng ta sẽ chuyên tâm vào việc học và hành trì nhiều hơn. Nhưng khi đã có thể hướng dẫn được người khác chút gì thì chúng ta cũng nên dấn thân vì lợi ích cho họ. Chúng ta cần mạnh dạn từ bỏ thái độ, rằng khi nào tu giác ngộ mới quay lại độ chúng sinh, trong khi chúng ta chẳng thể nào trả lời được câu hỏi khi nào mình sẽ giác ngộ. Chính vì vậy mà ngày nay, mặc dù chưa thể giác ngộ trong đời này, nhưng khi đã có phước duyên lớn gặp được Phật pháp, thì chúng ta hãy đem giáo pháp vi diệu ấy chia sẻ đến tất cả mọi người để cùng nhau tu tập. Ví như đi trong đêm tối mà có một ngọn nến trong tay, chúng ta hãy dùng nó để soi rọi cho mình và người cùng được thấy đường, hoặc dùng nó để mồi lên thêm nhiều ngọn nến khác. Bất giác, tôi nhớ tới lời Sư phụ từng nói: “Nếu như ai xuất gia cũng đều mang tư tưởng chuyên tu, tìm nơi thanh vắng, núi rừng, hay nhập thất để cầu giải thoát cho riêng mình thì thử hỏi ai sẽ là người hoằng truyền chánh pháp, hướng dẫn chúng sinh tu tập. Và ai cũng mang tư tưởng ấy thì thử hỏi làm sao mà đạo Phật chẳng bị diệt vong? Tất nhiên, tu thì phải có sự hành trì để tự giác ngộ cho mình, nhưng người tu sĩ cần phải biết gắn kết mật thiết giữa tự độ và độ tha.”
Thích Tâm Nguyệt kính ghi